Về tình tiết chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 169 Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của Bộ luật Hình sự

Ngày 04/10/2022, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã có Quyết định giám đốc thẩm số 15/2022/HS-GĐT về vụ án hình sự “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản”. Qua nghiên cứu, xem xét nội dung vụ án và nhận định của Tòa án, tôi cho rằng, vụ án cần phải xem xét để phát triển thành án lệ.

Vấn đề pháp lý đặt ra trong vụ án này là trong “tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản”, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với số tiền mà các bị cáo muốn chiếm đoạt.

Hiện nay chưa có quy định nào hướng dẫn Điều 169 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, về cách xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt hoặc sẽ bị chiếm đoạt. Bản án này đã đưa ra cách giải thích quy định của pháp luật và đường lối xử lý rằng tội phạm này là tội phạm về hình thức. Hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin là tội phạm đã hoàn thành. Việc xác định tội danh và điều khoản dựa trên ý chí, động cơ và mục đích chiếm đoạt tài sản của gia đình người bị bắt cóc, chứ không phụ thuộc vào việc thực tế có chiếm đoạt được hay không, khoản tiền có thể sẽ chiếm đoạt là bao nhiêu.

Như vậy, có thể thấy vấn đề pháp lý của dự thảo có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng.

Nội dung vụ án

 Khoảng tháng 8/2018, Trần Văn N cho anh Lưu Mạnh T vay 150.000.000 đồng nhưng đòi nợ nhiều lần anh T không trả và bỏ trốn vào Thành phố Hồ Chí Minh nên N nảy sinh ý định lừa anh Lưu Mạnh T ra Hà Nội để bắt giữ đòi nợ. N mượn tài khoản Zalo của Nguyễn Diệu L, mạo danh L để  kết bạn, nói chuyện và hẹn anh Lưu Mạnh T đi chơi ở Tam Đảo, Vĩnh Phúc vào chiều ngày 15/01/2019.

Ngày 12/01/2019, N rủ L, Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn Đ, Phan Văn Q tham gia bắt giữ anh Lưu Mạnh T để đòi nợ; L, Nguyễn Quang T, Đ và Q đồng ý. N chuẩn bị 03 gậy rút (mỗi gậy dài khoảng 60cm), 01 bình xịt hơi cay, 01 bật lửa điện và 01 còng số 8.

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 15/01/2019, N bảo Đ thuê xe taxi của anh Trịnh Anh T để chở N, L, Đ, Q, Nguyễn Quang T ra sân bay Nội Bài. Trên xe, N bàn bạc cách thức bắt giữ anh Lưu Mạnh T với L, Đ, Q và Nguyễn Quang T nên anh Trịnh Anh T biết rõ việc các đối tượng trên đến sân bay bắt giữ anh Lưu Mạnh T để đòi nợ. Trên xe, L nhận được điện thoại của anh Lưu Mạnh T thông báo 19 giờ cùng ngày anh sẽ đến sân bay Nội Bài.

Khoảng 15 giờ ngày 15/01/2019, Trịnh Anh T chở N, L, Đ, Q, Nguyễn Quang T đến sân bay Nội Bài và thuê 02 phòng nghỉ gần sân bay. Tại đây, N và Đ nói cho Trịnh Anh T biết kế hoạch bắt giữ anh Lưu Mạnh T, cụ thể: L sẽ thuê xe taxi khác đi trước đón anh Lưu Mạnh T, Trịnh Anh T chở mọi người theo sau; khi xe taxi của L và anh Lưu Mạnh T dừng lại, Trịnh Anh T đỗ xe phía sau để mọi người chạy lên bắt giữ anh Lưu Mạnh T. Trịnh Anh T đồng ý.

Khoảng 19 giờ 20 phút ngày 15/01/2019, L đón anh Lưu Mạnh T và thuê xe taxi đi theo hướng Tam Đảo. Trịnh Anh T chở N, Đ, Q, Nguyễn Quang T đi theo sau. Trên xe, N đưa cho Đ và Nguyễn Quang T mỗi người 01 gậy rút, đưa cho Q 01 bình xịt hơi cay. Đi được khoảng 15 km thì xe taxi chở L và anh Lưu Mạnh T dừng lại, xe của anh Trịnh Anh T dừng phía sau. N, Q, Đ, Nguyễn Quang T xuống xe và chạy sang xe taxi của anh Lưu Mạnh T. Nguyễn Quang T đưa L sang xe của Trịnh Anh T. N mở cửa sau bên trái, Đ mở cửa sau bên phải, Q mở cửa trước ghế phụ xe taxi của anh Lưu Mạnh T và xịt hơi cay vào mặt anh Lưu Mạnh T. N và Đ dùng gậy đánh anh Lưu Mạnh T, N và Q dùng tay đấm vào mặt anh Lưu Mạnh T đến khi anh Lưu Mạnh T xin trả nợ thì N, Q, Đ mới dừng lại.

N và Đ giữ tay anh Lưu Mạnh T, N đưa còng số 8 để Đ khóa một đầu vào tay phải của anh Lưu Mạnh T, một đầu khóa vào gầm ghế lái. Đ lấy áo trùm đầu anh Lưu Mạnh T và yêu cầu lái xe đi về hướng Bắc Ninh. Đến Bắc Ninh, N bảo Nguyễn Quang T đưa anh Lưu Mạnh T về giữ tại kho tập kết phế liệu của Nguyễn Quang T 01 hôm. N sang xe của Nguyễn Quang T và L (do anh Trịnh Anh T lái) đi trước; xe taxi chở Q, Đ và anh Lưu Mạnh T đi theo sau. Đến nơi, Đ bảo lái xe taxi đi thẳng vào trong kho, xe của Trịnh Anh T đỗ ngoài cửa còn N và L đi vào trong kho. Khoảng 05 phút sau, Trịnh Anh T lái xe về trước, Nguyễn Quang T đóng cửa kho lại. Q xuống xe cầm theo ba lô, anh Lưu Mạnh T vẫn bị khóa trên xe taxi. N lấy và xóa hết tin nhắn, lịch sử cuộc gọi giữa anh Lưu Mạnh T và L trên điện thoại của anh Lưu Mạnh T. Q kiểm tra ví của anh Lưu Mạnh T và giữ lại ví, thẻ ATM, CMND còn số tiền 2.700.000 đồng Q trả lại cho anh Lưu Mạnh T.

Sau đó, N, Đ và Q đưa anh Lưu Mạnh T xuống xe, đưa vào nhà vệ sinh. Q dùng còng số 8 khóa tay anh Lưu Mạnh T, dùng dây trói 2 tay anh Lưu Mạnh T ra phía sau, dùng băng dính quấn vào tay, bịt miệng anh Lưu Mạnh T. N và Đ đi taxi về nhà N, N lấy đoạn dây xích dài khoảng 1,5m rồi đi mua đồ ăn và quay lại nhà kho. N trả tiền và lái xe taxi đi về. L, N, Nguyễn Quang T, Đ, Q và anh Lưu Mạnh T ngồi ăn tại kho. Lúc ngồi ăn, Q bảo anh Lưu Mạnh T trả tiền cho N thì sẽ được thả. Ăn xong, Q và Đ chuyển anh Lưu Mạnh T ra góc kho bên phải, dùng băng dính buộc chân, tay bên trái của anh Lưu Mạnh T, tay phải vẫn khóa bằng còng số 8 buộc với dây xích vào cột sắt trong kho để anh Lưu Mạnh T không trốn hoặc tự tử được. Khoảng 24 giờ ngày 15/01/2019, N, Nguyễn Quang T và L về còn Đ và Q ở lại kho trông giữ anh Lưu Mạnh T.

Trưa ngày 16/01/2019, N, Nguyễn Quang T, Đ, Q và L tập trung tại nhà kho. N đưa điện thoại bắt anh Lưu Mạnh T gọi về nhà, bảo người nhà chuyển tiền vào tài khoản của anh Lưu Mạnh T và rút tiền trả nợ cho N. Khoảng 13 giờ cùng ngày, Đ gọi anh Trịnh Anh T đến nhà kho đón Đ. N dùng tay đấm vào mắt phải của anh Lưu Mạnh T, đưa điện thoại bắt anh Lưu Mạnh T gọi về nhà, yêu cầu gia đình chuyển 150.000.000 đồng vào tài khoản của anh Lưu Mạnh T. Anh Lưu Mạnh T gọi cho vợ cũ là chị Đàm Thị Phương L, nói việc bị bắt giữ vì nợ tiền và nhờ chị Đàm Thị Phương L sang nhà bảo bố mẹ anh Lưu Mạnh T đi vay tiền chuyển vào tài khoản của anh Lưu Mạnh T thì anh mới được thả. Do đã ly hôn nên chị Đàm Thị Phương L không làm theo lời anh Lưu Mạnh T. Anh Lưu Mạnh T gọi cho cô ruột là bà Lưu Thị L, nói đang nợ tiền, bị bắt, đánh, trói và bảo bà Lưu Thị L nhắn bố mẹ anh Lưu Mạnh T vay tiền cứu anh. Bà Lưu Thị L đến nhà thông báo nhưng bố mẹ anh Lưu Mạnh T không có tiền gửi. Anh Lưu Mạnh T gọi cho bạn là Hoàng Thị L, nói nợ tiền và đang bị giữ ở Bắc Ninh, nhờ chị Hoàng Thị L chuyển tiền để anh được thả về.

 Khoảng 14 giờ ngày 16/01/2019, không thấy người nhà anh Lưu Mạnh T chuyển tiền nên Q dùng điếu cày đánh anh Lưu Mạnh T. N  cầm bình cứu hỏa ném về phía anh Lưu Mạnh T, dùng chân đạp anh Lưu Mạnh T. Tối cùng ngày, L thuê taxi về Hà Nội; N mượn xe ô tô cùng Đ, T đưa anh Lưu Mạnh T về phòng trọ của Q. Quyền lấy dây xích trói anh Lưu Mạnh T vào chân giường. Đ, Nguyễn Quang T về.

Q giữ anh Lưu Mạnh T từ ngày 17/01/2019 đến sáng ngày 18/01/2019. Ở phòng trọ của Q, anh Lưu Mạnh T nhờ N chụp ảnh anh Lưu Mạnh T bị đánh và trói gửi cho chị Hoàng Thị L và gọi cho chị Lưu Thị H (chị họ của anh Lưu Mạnh T) để gia đình anh Lưu Mạnh T tin và chuyển tiền vào tài khoản của anh Lưu Mạnh T để trả nợ cho N. N bảo anh Lưu Mạnh T nói với chị H, nếu không chuyển tiền trả nợ thì N chặt tay anh Lưu Mạnh T nên chị H đồng ý lo tiền chuộc, trả nợ cho anh Lưu Mạnh T.

Khoảng 01 giờ ngày 19/01/2019, Trịnh Anh T chở Q, Đ, anh Lưu Mạnh T ra nghĩa trang thôn T, xã YT, huyện YP. Q và Đ dọa đốt anh Lưu Mạnh T. Sau đó, Trịnh Anh T lái xe chở Q, Đ, anh Lưu Mạnh T đến quán karaoke ở thôn AĐ, xã YT, huyện YP. Q đưa anh Lưu Mạnh T lên phòng 701 và trông giữ anh Lưu Mạnh T, Đ và Trịnh Anh T đi về. Khoảng 08 giờ ngày 19/01/2019, Đ đến thay Q trông giữ anh Lưu Mạnh T. Đ bắt anh Lưu Mạnh T gọi điện về nhà yêu cầu chuyển tiền và kiểm tra tài khoản của anh Lưu Mạnh T thì thấy có 38.928.049 đồng, trong đó: tiền có sẵn trong tài khoản là 23.928.049 đồng, tiền chị H chuyển hồi 10 giờ 12 phút ngày 19/01/2019 là 10.000.000 đồng và hồi 10 giờ 30 phút ngày 19/01/2019 là 5.000.000 đồng.

Khoảng 11 giờ ngày 19/01/2019, Đ đưa anh T đến trụ sở Công an đầu thú. Sau đó, Trịnh Anh T, N, Nguyễn Quang T, Đ đi đầu thú. Ngày 19/02/2019, Q ra đầu thú. Ngày 21/02/2019, L ra đầu thú.

Quá trình xét xử

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2019/HSST ngày 08/10/2019, TAND tỉnh Bắc Ninh áp dụng điểm e khoản 2 Điều 169; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Trần Văn N 42 tháng tù, Phan Văn Q 36 tháng tù, Nguyễn Văn Đ 36 tháng tù, Nguyễn Diệu L 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; Nguyễn Quang T 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; Trịnh Anh T 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm đều về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.

Ngày 21/10/2019, Trần Văn N, Phan Văn Q và Nguyễn Văn Đ kháng cáo xem xét lại tội danh, giảm hình phạt và cho các bị cáo hưởng án treo.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 535/2020/HSPT ngày 30/10/2020, TANDCC tại Hà Nội chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; áp dụng khoản 1 Điều 169, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, xử phạt Trần Văn N và Phan Văn Q 24 tháng tù, Nguyễn Văn Đ 24 tháng tù cho hưởng án treo, Nguyễn Diệu L, Nguyễn Quang T, Trịnh Anh T 18 tháng tù cho hưởng án treo cùng về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.

Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 29/QĐ-VKST ngày 31/8/2021, Viện trưởng VKSNDTC kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 535/2020/HSPT ngày 30/10/2020 của TANDCC tại Hà Nội về phần trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn N, Phan Văn Q, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Quang T, Nguyễn Diệu L và Trịnh Anh T. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2019/HSST ngày 08/10/2019 của TAND tỉnh Bắc Ninh về phần trách nhiệm hình sự của Trần Văn N, Phan Văn Q, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Quang T, Nguyễn Diệu L và Trịnh Anh T để xét xử sơ thẩm lại theo hướng áp dụng điểm a, e khoản 2 Điều 169 BLHS đối với tất cả các bị cáo, tăng hình phạt và không cho hưởng án treo đối với các bị cáo chủ mưu, cầm đầu và thực hành tích cực.

Nhận định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Hội đồng Thẩm phán TANDTC nhận định: “Trong vụ án này, các bị cáo thực hiện hành vi bắt giữ, trói, nhốt, đánh anh Lưu Mạnh T nhằm gây áp lực để T phải gọi cho gia đình, người thân chuyển số tiền 150.000.000 đồng mà anh Lưu Mạnh T đã vay của Trần Văn N vào tài khoản của anh Lưu Mạnh T, trả nợ cho N thì anh Lưu Mạnh T mới được thả về. Như vậy, mục đích của chuỗi hành vi bắt giữ, trói, nhốt, đánh anh Lưu Mạnh T mà các bị cáo thực hiện là nhằm chiếm đoạt số tiền 150.000.000 đồng của gia đình anh Lưu Mạnh T. Việc chị Lưu Thị H (chị họ của anh Lưu Mạnh T) mới chuyển vào tài khoản của anh Lưu Mạnh T 02 lần với tổng số tiền là 15.000.000 đồng và trong tài khoản của anh Lưu Mạnh T có sẵn 23.928.049 đồng nhưng các bị cáo chưa buộc anh Lưu Mạnh T rút số tiền này để đưa cho các bị cáo, không làm thay đổi mục đích chiếm đoạt ban đầu của các bị cáo là 150.000.000 đồng.

 Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với số tiền 150.000.000 đồng là mục đích chiếm đoạt của các bị cáo từ khi bắt đầu việc bắt giữ anh Lưu Mạnh T. Các bị cáo phải bị xét xử về tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung hình phạt “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự.

Về lập luận của Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng các bị cáo trong vụ án này chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 169 Bộ luật Hình sự với lý do các bị cáo chưa chiếm đoạt số tiền 150.000.000 đồng của gia đình anh Lưu Mạnh T, thì thấy: tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” là tội phạm có cấu thành hình thức. Do đó, thời điểm tội phạm hoàn thành là khi các bị cáo có hành vi bắt giữ anh Lưu Mạnh T, gây áp lực để gia đình anh Lưu Mạnh T phải chuyển số tiền 150.000.000 đồng theo yêu cầu của các bị cáo vào tài khoản của anh Lưu Mạnh T, để anh Lưu Mạnh T rút trả nợ cho N thì anh Lưu Mạnh T mới được thả. Tội phạm hoàn thành không phụ thuộc vào việc các bị cáo đã chiếm đoạt được số tiền 150.000.000 đồng này hay chưa hoàn thành.

Tình tiết “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” là tình tiết định khung tăng nặng của khoản 1 Điều 169 Bộ luật Hình sự nên vẫn tuân theo nguyên tắc cấu thành hình thức của khoản 1, theo đó “số tiền chiếm đoạt” để định khung ở đây vẫn phải xem xét theo mục đích chiếm đoạt của các bị cáo khi thực hiện hành vi bắt giữ anh Lưu Mạnh T. Việc Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cụm từ “nhằm chiếm đoạt tài sản” ở khoản 1 và cụm từ “số tiền chiếm đoạt” ở khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự phải được hiểu khác nhau, theo đó cụm từ “nhằm chiếm đoạt tài sản” ở khoản 1 được hiểu là chỉ cần các bị cáo có mục đích chiếm đoạt tài sản của gia đình người bị bắt cóc còn thực tế có chiếm đoạt được hay không không ảnh hưởng đến cấu thành tội phạm; còn cụm từ “số tiền chiếm đoạt” ở khoản 2 được hiểu là phải chiếm đoạt được số tiền này trên thực tế thì mới cấu thành tội phạm ở khung tăng nặng là không có căn cứ.

Từ nhận định của Hội đồng Thẩm phán, có thể thấy vấn đề pháp lý của bản án có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng.

 

Các bị cáo trong một vụ bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản - Ảnh: MH

TRẦN HỒNG NHUNG (Vụ Pháp chế & QLKH TANDTC), HỒ THỊ HƯƠNG (Văn phòng Quốc hội)