Xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên nhân văn, bảo vệ quyền, lợi ích và tạo điều kiện tốt nhất cho người chưa thành niên

Xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên là yêu cầu tất yếu nhằm thực hiện chủ trương của Đảng về “phát triển hệ thống tư pháp thân thiện và bảo vệ trẻ em”; cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013; thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên. Đặc biệt, thực hiện Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Bài viết giới thiệu tính nhân văn, đặt mục tiêu bảo vệ quyền, lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên, giúp họ cải tạo, sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội trong Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên.

Đặt vấn đề

Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990. Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên (NCTN) đã bảo đảm tính tương thích với Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, cơ bản phù hợp với hệ thống các nguyên tắc, quy tắc quan trọng về tư pháp NCTN, gồm: Nguyên tắc hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa tội phạm ở NCTN (Nguyên tắc Riyadh); Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động tư pháp đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh); Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ NCTN bị tước quyền tự do (Quy tắc Havana); Hướng dẫn dành cho hành động đối với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự (Nguyên tắc Vienna)[1].

Việt Nam luôn có quan điểm và chính sách nhất quán về quyền trẻ em. Việc ưu tiên chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em được ghi nhận trong nhiều văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đặt ra mục tiêu “xây dựng hệ thống pháp luật minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán” và đề ra giải pháp “Tăng cường các đạo luật có nội dung cụ thể, hiệu lực trực tiếp”.

Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc đã đề ra giải pháp “Hoàn thiện chính sách, pháp luật; tiêu chuẩn, quy trình tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho trẻ em phù hợp giai đoạn mới. Đổi mới cơ chế, chính sách xã hội hoá, khuyến khích, huy động tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, xã hội tham gia, phối hợp thực hiện tốt các chính sách, mục tiêu, chỉ tiêu, giải pháp, mô hình chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em”; “phát triển hệ thống tư pháp thân thiện và bảo vệ trẻ em”.

Trong pháp luật Việt Nam, quyền của trẻ em được ghi nhận tại khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013: “Trẻ em có quyền được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.

Việt Nam hiện đang có 07 bộ luật, luật điều chỉnh trực tiếp về tư pháp hình sự đối với NCTN và nhiều văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.

Tuy vậy, hệ thống pháp luật về tư pháp NCTN vẫn còn một số hạn chế, bất cập, như: hệ thống hình phạt chưa phù hợp; một số hình phạt chưa có sự phân hóa giữa NCTN và người trưởng thành; mức hình phạt tù tối đa vẫn còn nghiêm khắc; các biện pháp giám sát, giáo dục đã được quy định nhưng hầu như không được áp dụng, thiếu tính khả thi; thủ tục tố tụng hình sự chưa thực sự thân thiện; quy định về thi hành án, tái hòa nhập cộng đồng còn chưa phù hợp, hiệu quả chưa cao; chưa nội luật hóa đầy đủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc công nhận…

Luật Tư pháp NCTN nhằm hoàn thiện pháp luật tư pháp đủ nghiêm khắc nhưng cũng bảo đảm tính nhân văn đối với NCTN phạm tội; tăng cường giáo dục, hỗ trợ, giúp đỡ NCTN phạm tội tự sửa chữa lỗi lầm; xây dựng quy trình, thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với độ tuổi, tâm lý và vì lợi ích tốt nhất cho NCTN; bảo đảm các quyền cơ bản của  NCTN trong xử lý chuyển hướng, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng; huy động nguồn nhân lực có chuyên môn về công tác xã hội; tăng cường trách nhiệm của gia đình, cơ quan, tổ chức hữu quan hỗ trợ, giám sát, giáo dục NCTN; thiết lập cơ sở giam giữ phù hợp với mục đích phục hồi, giáo dục và sự phát triển của NCTN; tăng cường cơ hội tái hòa nhập cộng đồng;… 

Dự thảo Luật Tư pháp NCTN gồm 05 Phần, Phần thứ nhất là những quy định chung; phần thứ hai là những quy định về xử lý chuyển hướng đối với NCTN phạm tội; phần thứ ba bao gồm hình phạt và thủ tục tố tụng  đối với NCTN; phần thứ tư quy định về thi hành án phạt tù, tái hòa nhập cộng đồng; phần thứ năm là những điều khoản thi hành. Dự thảo Luật được chia thành 11 chương và 173 điều, đã thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về trẻ em, bảo đảm tính thân thiện, nhân văn, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích tốt nhất của NCTN, giúp họ cải tạo, sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

  1. Quy định của pháp luật hiện hành về người chưa thành niên

Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và phù hợp với các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em 1989 (CRC), Việt Nam đã ban hành Luật Trẻ em năm 2016. Trong Luật này, nhóm quyền trẻ em được ghi nhận, bao gồm các quyền: quyền được chăm sóc sức khỏe (Điều 14); quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng (Điều 15); quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc (Điều 27)…

Theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì NCTN là người chưa đủ mười tám tuổi.

Giáo trình Tư pháp đối với người chưa thành niên của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng đưa ra định nghĩa: “Ở góc độ pháp luật Việt Nam, tư pháp đối với người chưa thành niên được hiểu là một phần của hệ thống tư pháp, trong đó điều chỉnh, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội của người chưa thành niên, đồng thời cũng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên theo quy định của pháp luật”.

Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam thì người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên thì phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi hành vi phạm tội (Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015).

NCTN là người chưa trưởng thành về mọi mặt (thể chất, tinh thần, nhận thức và đạo đức), chưa thể tự bảo vệ mình một cách tốt nhất trước các nguy cơ vi phạm và tội phạm. Đặc biệt là khi tham gia vào các quy trình tư pháp hình sự dễ bị tác động tiêu cực, nhất là khi phải đối diện với các biện pháp có tính chất cưỡng chế (như: khởi tố, bắt, giam, giữ, khám xét...). Vì thế đòi hỏi Nhà nước khi thiết kế chính sách xử lý cần có cách tiếp cận chuyên biệt, khác với người trưởng thành.

 NCTN trong Dự thảo Luật NCTN được quy định tại Điều 4 bao gồm: NCTN phạm tội, NCTN là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, NCTN được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, NCTN là người chấp hành án.

 NCTN phạm tội là người phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.

 NCTN bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.

 Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng gồm: học sinh trường giáo dưỡng và người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.

 NCTN là bị hại người dưới 18 tuổi trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.

 NCTN là người làm chứng người dưới 18 tuổi biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.

2. Nguyên tắc xuyên suốt về bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong xây dựng Dự thảo Luật

Quyền trẻ em được đề cập từ Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, được nhấn mạnh thêm trong các bản Hiến pháp năm 1980, năm 1992 và tại khoản 1 Điều 37 của Hiến pháp năm 2013. Các nghị quyết, văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước đều khẳng định trẻ em được ưu tiên chăm sóc, giáo dục và bảo vệ.

Nhằm thể chế hóa các yêu cầu của Đảng về “phát triển hệ thống tư pháp thân thiện và bảo vệ trẻ em”[2], thực thi đầy đủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên[3] hoặc công nhận. Đồng thời, trong các văn bản pháp luật có liên quan như: Luật Trẻ em, Bộ luật Hình sự (BLHS), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), Luật Thi hành án hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Trợ giúp pháp lý trẻ em, NCTN là đối tượng được đặc biệt quan tâm. Với mục đích xây dựng một đạo luật chuyên biệt và toàn diện về tư pháp NCTN, Dự thảo Luật kế thừa một cách thống nhất và có đổi mới, bổ sung nhiều chính sách và quy định chuyên biệt, thân thiện và nhân văn hơn dành cho NCTN. Chương II của Dự thảo dành từ Điều 5 đến Điều 20 quy định 16 nguyên tắc nhân văn, tiến bộ và đặc thù để bảo vệ NCTN trong tư pháp hình sự. Cụ thể:

 Bảo đảm lợi ích tốt nhất: Khi giải quyết vụ việc có NCTN phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của họ; việc truy cứu trách nhiệm hình sự NCTN phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

 Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện: Thủ tục tố tụng đối với NCTN phải bảo đảm đơn giản, thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành và khả năng nhận thức của NCTN.

Đối xử bình đẳng: Thể hiện qua việc bảo đảm công bằng, không kỳ thị, không phân biệt đối xử đối với NCTN; quan tâm đến nhu cầu chính đáng của NCTN; NCTN có quyền được thông tin đầy đủ, kịp thời bằng ngôn từ đơn giản, thân thiện, dễ hiểu về những nội dung liên quan đến giải quyết vụ việc, vụ án của họ.

Bảo đảm quyền có người đại diện: Bảo đảm quyền tham gia của người đại diện của NCTN niên trong quá trình giải quyết vụ việc, vụ án.

Giải quyết nhanh chóng, kịp thời: Giải quyết vụ việc, vụ án có NCTN phải nhanh nhất có thể và ưu tiên áp dụng thủ tục rút gọn.

Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử đối với NCTN không quá ½ thời hạn đối với người trưởng thành, trừ trường hợp vụ án có tính chất phức tạp.

Ưu tiên áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng:  Biện pháp xử lý chuyển hướng được ưu tiên áp dụng đối với NCTN trong tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.

 Việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải phù hợp với lợi ích của NCTN và cộng đồng.

Việc áp dụng hình phạt: Hình phạt áp dụng đối với NCTN chủ yếu nhằm giáo dục họ ý thức tôn trọng, tuân theo pháp luật và các chuẩn mực đạo đức, lối sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới, có tác dụng phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

 Nếu phải áp dụng hình phạt thì ưu tiên áp dụng hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với NCTN phạm tội.

Bảo đảm giữ bí mật cá nhân: Bí mật cá nhân của NCTN phải được tôn trọng, bảo vệ trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, xử lý chuyển hướng, thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng.

Tòa án xét xử kín đối với NCTN là bị hại trong vụ án xâm hại tình dục.

Trường hợp NCTN là bị hại, người làm chứng tham gia tố tụng thì phải bố trí phòng cách ly hoặc các biện pháp bảo vệ khác.

 Quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý, phiên dịch: Trong mọi trường hợp, NCTN bị buộc tội phải có người bào chữa. NCTN khi tham gia tố tụng hình sự được trợ giúp pháp lý và phiên dịch miễn phí.

 Hạn chế tối đa việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế: Các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế chỉ được áp dụng đối với NCTN là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị buộc tội trong trường hợp thật cần thiết.

Chuyên môn hóa trong hoạt động tư pháp NCTN: Người tiến hành tố tụng đối với vụ án có NCTN phải là người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến NCTN hoặc có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với NCTN.

Bảo đảm và tôn trọng quyền tham gia, trình bày ý kiến: NCTN được quyền tham gia, trình bày ý kiến về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong suốt quá trình tố tụng. Ý kiến trình bày của NCTN phải được tôn trọng, không bị coi là không đáng tin cậy chỉ vì lý do tuổi của họ. Việc NCTN không nhận tội không bị coi là không thành khẩn khai báo.

 Cơ quan tiến hành tố tụng phải lắng nghe ý kiến, nguyện vọng, quan tâm đến thái độ của NCTN phù hợp với lứa tuổi, giới tính, mức độ trưởng thành và sự phát triển của họ.

Quy định cụ thể về việc giữ bí mật thông tin cá nhân của NCTN trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng nhằm nội luật hóa Điều 40 Công ước quốc tế về quyền trẻ em “Mọi điều riêng tư” của họ.

Bảo đảm hiệu lực của quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi quyền hạn, nghĩa vụ của mình có trách nhiệm phối hợp và thực hiện yêu cầu, đề nghị của cơ quan, người có thẩm quyền trong thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

Bảo đảm việc thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và thi hành án phạt tù phù hợp: Việc thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và thi hành án phạt tù phải bảo đảm việc bảo vệ, giáo dục, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng của NCTN.

Trường giáo dưỡng, cơ sở giam giữ bảo đảm điều kiện vật chất phù hợp với lứa tuổi, giới tính và sự phát triển của NCTN.

 NCTN chấp hành án phạt tù tại trại giam riêng hoặc phân trại dành riêng cho NCTN trong trại giam.

Hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng: Tạo điều kiện thuận lợi cho NCTN chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống, phòng ngừa tái phạm.

Bảo đảm các hoạt động giáo dục, dạy nghề phù hợp với NCTN và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để họ tái hòa nhập cộng đồng trong, và sau khi chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, án phạt tù.

3. Xây dựng chế định xử lý chuyển hướng thay thế cho hình phạt

Áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng đối với NCTN phạm tội nhằm mục đích: Xử lý kịp thời và hiệu quả đối với NCTN; giúp NCTN thay đổi nhận thức, nhận biết, sửa chữa sai lầm đã gây ra, tự rèn luyện khắc phục, ngăn ngừa nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội và giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội; đẩy mạnh việc hòa giải giữa NCTN và bị hại bị ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm của NCTN; nâng cao trách nhiệm của cha mẹ, gia đình, cộng đồng tham gia trực tiếp vào hoạt động xử lý chuyển hướng;  hạn chế tác động tiêu cực của thủ tục tố tụng hình sự đối với họ; ngăn ngừa NCTN phạm tội mới, tạo cơ hội tái hòa nhập cộng đồng.

Việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; khả năng giáo dục, phục hồi của NCTN và sự an toàn của bị hại, cộng đồng.

 Dự thảo Luật Tư pháp NCTN quy định 12 biện pháp xử lý chuyển hướng, gồm: (1) khiển trách; (2) xin lỗi bị hại; (3) bồi thường thiệt hại; (4) giáo dục tại xã, phường, thị trấn; (5) quản thúc tại gia đình; (6) hạn chế khung giờ đi lại; (7) cấm tiếp xúc với người có nguy cơ dẫn đến NCTN phạm tội mới; (8) cấm đến địa điểm có nguy cơ dẫn đến NCTN phạm tội mới; (9) tham gia chương trình học tập, dạy nghề; (10) tham gia điều trị hoặc tư vấn tâm lý; (11) thực hiện công việc phục vụ cộng đồng; (12) giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Dự thảo Luật Tư pháp NCTN đã mở rộng phạm vi áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng  trên cơ sở kế thừa quy định của BLHS và quy định chặt chẽ các điều kiện áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng để bảo đảm trật tự xã hội, an toàn cho cộng đồng. Đồng thời, quy định việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng linh hoạt, phù hợp với từng NCTN.

Dự thảo Luật bổ sung nguyên tắc khi áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; khả năng giáo dục, phục hồi của NCTN và sự an toàn của bị hại, của cộng đồng. Việc lựa chọn biện pháp xử lý chuyển hướng nào áp dụng đối với NCTN phải phù hợp với hoàn cảnh, độ tuổi, đặc điểm tâm sinh lý của họ; NCTN phạm tội có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp xử lý chuyển hướng; không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng nếu tại thời điểm xem xét mà người phạm tội đã đủ 18 tuổi.

Khuyến khích, tạo điều kiện cho NCTN chấp hành tốt để được rút ngắn thời gian xử lý chuyển hướng trước thời hạn.

Đổi mới trình tự, thủ tục xử lý chuyển hướng theo hướng nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả. Quy định 02 trình tự, thủ tục xử lý chuyển hướng, gồm: thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng; thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Dự thảo Luật quy định người đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; quản thúc tại gia đình; giáo dục tại trường giáo dưỡng mà đã chấp hành được ít nhất một phần hai thời hạn áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và có nhiều tiến bộ thì có thể được chấm dứt trước thời hạn áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, nhằm khích lệ họ tích cực rèn luyện bản thân và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

Quy định chặt chẽ thủ tục thi hành biện pháp xử lý chuyển hướng.

 4. Xây dựng thủ tục tố tụng thân thiện

Dự thảo Luật bổ sung nhiều quy định nhằm bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện đối với NCTN trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố như: Quy trình khởi tố, điều tra, truy tố phải được tiến hành trong môi trường thân thiện. Nếu trong vụ án hình sự có người bị buộc tội là NCTN và người đã thành niên thì phải tách vụ án hình sự đối với NCTN để giải quyết vụ án độc lập.

Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử phải ngắn hơn so với vụ án hình sự thông thường. Việc lấy lời khai, khám xét người, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói phải bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi và phải có sự tham gia của người đại diện hoặc người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Các thông tin có liên quan đến hành vi phạm tội của NCTN phải được giữ kín, không cung cấp công khai.

Thủ tục tố tụng phải được tiến hành bởi Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với NCTN.

 Hoàn thiện các quy định về thủ tục xét xử thân thiện, theo đó: Vụ án hình sự do Tòa gia đình và NCTN hoặc do Thẩm phán chuyên trách xét xử; xét xử vụ án trong phòng xử án thân thiện; khi xét xử không còng tay hoặc sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác; cho phép người làm công tác xã hội trình bày Báo cáo điều tra xã hội đối với NCTN; việc xét hỏi, tranh luận phải được tiến hành phù hợp với lứa tuổi, khả năng nhận thức của NCTN; Thẩm phán mặc trang phục hành chính và phải điều hành phiên tòa theo mức độ tập trung của NCTN; khi tuyên án, Hội đồng xét xử chỉ công bố phần quyết định trong bản án.

Quy định thủ tục tố tụng thân thiện đối với NCTN là bị hại, người làm chứng như: Hạn chế tiếp xúc giữa bị hại, người làm chứng với với bị can, bị cáo; hạn chế triệu tập bị hại, người làm chứng đến Tòa án và không áp dụng biện pháp dẫn giải; việc xem xét dấu vết trên thân thể của người bị hại phải tôn trọng quyền riêng tư, có sự tham gia của người đại diện của họ và được tiến hành bởi cán bộ cùng giới tính; được trợ giúp pháp lý miễn phí; hỗ trợ về bồi thường và chi phí để khám, điều trị theo quy định của pháp luật.

Dành hai thủ tục tố tụng riêng biệt đối với NCTN, đó là: Thủ tục tố tụng đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội; thủ tục tố tụng đối với bị hại, người làm chứng.

 Dự thảo Luật bổ sung 02 biện pháp ngăn chặn mới: Dự thảo quy định các biện pháp ngăn chặn và giám sát 10 biện pháp ngăn chặn bao gồm các biện pháp ngăn chặn của pháp luật hiện hành, đồng thời bổ sung 02 biện pháp ngăn chặn mới là giám sát điện tử và giám sát bởi người đại diện. NCTN chỉ bị áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp thật sự cần thiết và khi các biện pháp giám sát khác không hiệu quả.

6. Về hình phạt và thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên

Do NCTN là người chưa trưởng thành về thể chất, tinh thần, nhận thức và đạo đức, chưa tự bảo vệ mình một cách tốt nhất trước các nguy cơ vi phạm và tội phạm. Đặc biệt là khi tham gia vào các quy trình tư pháp hình sự đều dễ bị tác động tiêu cực, dễ để lại những tổn thương lâu dài, nhất là khi phải đối diện với các biện pháp có tính chất cưỡng chế (như: khởi tố, bắt, giam, giữ, khám xét, đối chất v.v…). Đòi hỏi Nhà nước khi thiết kế chính sách xử lý cần có cách tiếp cận chuyên biệt, khác với người trưởng thành, để từ đó thiết lập các nguyên tắc xử lý, chế định hình phạt, thủ tục tố tụng, thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng phù hợp với đặc điểm của NCTN; cũng như cân nhắc toàn diện các nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến NCTN phạm tội.

Xu hướng chung trên thế giới hiện nay là thay thế những chương riêng, những điều riêng về NCTN  bằng một đạo luật toàn diện, áp dụng cách tiếp cận chuyên biệt, khác với người trưởng thành để quy định chính sách xử lý liên quan đến NCTN. Xây dựng đạo luật chuyên biệt về tư pháp NCTN thì hình phạt và thủ tục tố tụng hình sự cần thiết phải được điều chỉnh phù hợp với đặc điểm của NCTN, khắc phục những bất cập trong BLHS và BLTTHS hiện hành. Dự thảo Luật Tư pháp NCTN đã bao gồm hình phạt và thủ tục tố tụng hình sự theo hướng đủ nghiêm khắc, nhưng cũng bảo đảm nhân văn đối với NCTN phạm tội và tăng cường giáo dục, hỗ trợ, giúp đỡ NCTN phạm tội tự sửa chữa lỗi lầm.

Kết luận

Việc ban hành một đạo luật chuyên biệt về tư pháp đối với NCTN thể hiện Việt Nam đáp ứng và thực thi tích cực, nghiêm túc yêu cầu của Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em. Bảo đảm các quyền cơ bản của NCTN trong xử lý chuyển hướng, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng; huy động nguồn nhân lực có chuyên môn về công tác xã hội; tăng cường trách nhiệm của gia đình, cơ quan, tổ chức hữu quan hỗ trợ, giám sát, giáo dục NCTN; thiết lập cơ sở giam giữ phù hợp với mục đích phục hồi, giáo dục và sự phát triển của NCTN; tăng cường cơ hội tái hòa nhập công đồng; xây dựng cơ chế giám sát, giáo dục, phục hồi hiệu quả, chuyên nghiệp, đơn giản, phù hợp với NCTN… 

Dự thảo Luật Tư pháp NCTN được xây dựng theo hướng bảo đảm NCTN được bảo vệ quyền, lợi ích tốt nhất; đủ nghiêm khắc, tạo môi trường giáo dục, răn đe, cải tạo tốt nhưng cũng bảo đảm tính nhân văn đối với NCTN phạm tội và tăng cường giáo dục, hỗ trợ giúp họ cải tạo, sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

 

TS. NGUYỄN VĂN DU (Ủy viên Ban cán sự đảng, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao)

Tài liệu tham khảo

1. Hiến pháp năm 2013.

2. Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.

3. Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

4. Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên.

5. Giáo trình Tư pháp đối với người chưa thành niên của Trường Đại học Luật Hà Nội.

6. Tờ trình của Tòa án nhân dân tối cao về Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên.

7. Các Báo cáo thẩm tra Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội.

8. GS.TS Nguyễn Hòa Bình, Những định hướng lớn trong xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên ở Việt Nam,  https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/nhung-dinh-huong-lon-trong-xay-dung-luat-tu-phap-nguoi-chua-thanh-nien-o-viet-n-1, truy cập ngày 30/9/2024.


[1] Bốn văn kiện này tuy không phải là điều ước quốc tế được các quốc gia phê chuẩn, nhưng được quốc tế khuyến nghị các quốc gia áp dụng trong quá trình xây dựng Luật hoặc cải cách hệ thống tư pháp NCTN

(Báo cáo thẩm tra Dự thảo Luật của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội).

[2] Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

[3] Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.