
Tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện thủ tục nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam
Sáng 17/5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội họp phiên toàn thể ở hội trường nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam. Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan điều hành Phiên họp. Dự thảo Luật tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khi thực hiện thủ tục nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam. Qua đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày tóm tắt dự thảo
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình tóm tắt dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, theo đó, việc xây dựng Luật nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, như Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 45- CT/TW ngày 19/5/2015, Kết luận số 12-KL/TW ngày 12/8/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung gồm 3 Điều, tập trung vào 2 chính sách lớn, đó là: Chính sách 1: Nới lỏng điều kiện liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam. Chính sách 2: Nới lỏng điều kiện liên quan đến việc trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh nêu rõ, dự thảo Luật có một số nội dung cơ bản, như: sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người chưa thành niên nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ hoặc người chưa thành niên có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 19 theo hướng đối với người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ, người chưa thành niên có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thì không cần đáp ứng điều kiện “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày Tờ trình dự án Luật
Sửa đổi, bổ sung quy định khoản 2 và khoản 3 Điều 19 theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam nhằm thu hút nguồn lực chất lượng cao. Theo đó, người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi xin nhập quốc tịch Việt Nam thì được miễn các điều kiện quy định tại điểm c, d, đ, e khoản 1 Điều 19. Đồng thời, các trường hợp này được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 02 điều kiện tương tự trường hợp có người thân thích là công dân Việt Nam và được Chủ tịch nước cho phép.
Bỏ quy định về các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam tại khoản 1 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam. Theo đó, tất cả các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể được xét trở lại quốc tịch Việt Nam.
Sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 23 theo hướng người xin trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 2 điều kiện tương tự trường hợp được nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài và được Chủ tịch nước cho phép.
Bổ sung quy định về mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong một số trường hợp tại khoản 5 Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam. Dự thảo Luật bổ sung điều kiện “phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam” khi công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài tham gia vào các cơ quan dân cử, cơ quan của hệ thống chính trị, tham gia lực lượng vũ trang, cơ yếu... nhằm bảo đảm vấn đề an ninh chính trị, lợi ích quốc gia.
Về Thông báo và đăng tải kết quả giải quyết các việc về quốc tịch, sửa đổi, bổ sung Điều 41 như sau:
Bộ Tư pháp có trách nhiệm thông báo cho người xin nhập, xin trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam, người bị tước quốc tịch Việt Nam, bị hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam về kết quả giải quyết các việc về quốc tịch có liên quan và đăng trên Trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
Văn phòng Chủ tịch nước có trách nhiệm gửi đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định cho nhập, cho trở lại, cho thôi, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam.”
Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội cơ bản tán thành nội dung dự thảo
Thẩm tra dự án Luật này, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng nêu rõ, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp (UBPLTP) tán thành sự cần thiết ban hành Luật với những lý do nêu tại Tờ trình của Chính phủ. Hồ sơ dự án Luật đầy đủ các tài liệu theo quy định, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, quyết định theo trình tự, thủ tục rút gọn.
UBPLTP nhận thấy, nội dung dự thảo Luật cơ bản phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng được đề ra tại Nghị quyết số 36-NQ/TW, Chỉ thị số 45-CT/TW và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị, tuy nhiên, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục làm rõ để thể chế hóa đầy đủ “cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch” theo yêu cầu tại Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị để thu hút, trọng dụng các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành là người Việt Nam ở nước ngoài.
UBPLTP cơ bản tán thành phạm vi sửa đổi, bổ sung được nêu tại Tờ trình của Chính phủ; tán thành trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam quy định tại khoản 6, khoản 9 Điều 1 của dự thảo Luật (sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 21, khoản 3 Điều 25 của Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành); tán thành việc quy định trong Luật các điều kiện mang tính nguyên tắc đối với trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam mà vẫn được giữ quốc tịch nước ngoài quy định tại điểm c khoản 7 Điều 1 của dự thảo Luật (sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 23 của Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành).
Liên quan đến quan hệ giữa Nhà nước và công dân (khoản 1 Điều 1 của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 5 của Luật Quốc tịch Việt Nam), về bổ sung khoản 5 vào Điều 5, UBPLTP cơ bản nhất trí bổ sung quy định “phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” đối với “(i) Người ứng cử, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; (ii) người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh vào các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương và địa phương; (iii) người được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập; (iv) người làm việc trong tổ chức cơ yếu, người tham gia lực lượng vũ trang của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Về điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 4 Điều 1 của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 19 của Luật Quốc tịch Việt Nam), UBPLTP cơ bản tán thành nội dung sửa đổi, bổ sung Điều 19 của Luật Quốc tịch Việt Nam như quy định tại khoản 4 Điều 1 của dự thảo Luật nhằm góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp dân tộc và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Ngoài ra, đề nghị tiếp tục nghiên cứu, làm rõ để quy định phù hợp điều kiện “có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam” đối với người xin nhập quốc tịch Việt Nam mà có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ, ông nội và bà nội, ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; làm rõ thời gian thường trú ở Việt Nam từ 05 năm trở lên tại điểm đ khoản 1 Điều 19 có cần liên tục không.
Về điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam (khoản 7 Điều 1 của dự thảo Luật sửa đổi tên gọi và một số khoản của Điều 23 của Luật Quốc tịch Việt Nam), UBPLTP cơ bản nhất trí với quy định của dự thảo Luật và cho rằng, nội dung sửa đổi này là cần thiết nhằm kịp thời thể chế hóa yêu cầu tại các văn bản, chỉ đạo của Đảng, tạo điều kiện khuyến khích và thuận lợi hơn cho những người đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam, đồng thời phù hợp với thay đổi của tình hình thực tiễn, bảo đảm tính ổn định, lâu dài của Luật.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Chức năng của Tòa án và một số nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự
-
Thủ tướng: Khẩn trương hoàn thiện hồ sơ sắp xếp đơn vị hành chính 2 cấp; bố trí đủ kinh phí, chi trả cho người nghỉ việc
-
Phạm vi trách nhiệm hình sự của hậu quả thiệt hại do hành vi vi phạm an toàn giao thông gây ra
-
Trao đổi thêm về giá trị của Bộ luật Gia Long
-
TANDCC tại Hà Nội quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do cơn bão số 3
Bình luận