Nguyễn Văn A và Mạnh Kim Tr phạm tôi gì?
Do thiếu tiền tiêu xài nên Nguyễn Văn A đã nảy sinh ý định thuê xe ôtô ở tiệm dịch vụ cho thuê xe rồi đem đi cầm cố, thế chấp lấy tiền.
Khoảng 20 giờ ngày 09/01/2018, A điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 51V3 - 8852 đến tiệm dịch vụ cho thuê xe ô tô Thanh Hà để thuê xe. Ông Nguyễn Văn Th là chồng bà Lê Minh P - chủ cơ sở cho thuê xe và A và ông Th làm hợp đồng thuê xe ô tô HUYNDAI GRAND biển kiểm soát 77A - 034.40 với giá 700.000 đồng/ngày, thời gian thuê xe từ 20 giờ 30 phút ngày 09/01/2018 đến 22 giờ 00 phút ngày 11/01/2018. Ông Th đưa cho A sổ kiểm định (bản chính), giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự (bản chính) và giấy đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 77A - 034.40 (bản phô tô có chứng thực); A đưa cho ông Th CMND, sổ hộ khẩu (bản phô tô có chứng thực), xe mô tô biển kiểm soát 51V3 - 8852 để làm tin và 1.000.000 đồng tiền thuê xe rồi điều khiển xe ô tô đi khỏi tiệm.
Ngày 10/01/2018, A đem giấy CMND bản chính mang tên Nguyễn Văn Ch (giấy CMND này do Nguyễn Kim Q đưa cho A để nhờ A đi gặp Ch đòi tiền giúp Q) phô tô thành nhiều bản rồi tẩy xóa, ghi lại thành CMND mang tên Lê Minh P. Sau đó, A gặp Mạnh Kim Tr và nhờ Tr giả làm chủ xe để đi cầm cố xe ôtô lấy tiền rồi A sẽ gửi tiền bồi dưỡng. Tr hỏi A xe của ai thì A nói xe đi thuê, do kẹt tiền nên cắm đỡ vài bữa rồi chuộc lại thì Tr đồng ý.
Sáng 12/01/2018, A gọi điện thoại hỏi ông K về việc cầm xe ô tô, ông K hỏi A xe loại gì, có giấy tờ hay không thì A nói đặc điểm xe và nói có giấy tờ đầy đủ. Sau đó, ông K hẹn A ngày 13/01/2018 xuống thành phố Quy Nhơn gặp để ông K coi xe. Sáng ngày 13/01/2018, A chở Tr đi đến thành phố Quy Nhơn gặp ông K. Trên đường đi, A bảo Tr đưa hình thẻ để A dán vào giấy CMND phô tô đã chỉnh sửa mang tên Lê Minh P rồi phô tô thành 02 bản, A nói với Tr nếu ông K có hỏi thì nói do thua đá gà nên kẹt tiền, cầm xe ô tô mấy ngày sẽ chuộc lại.
Sau đó, A và Tr đi đến quán cà phê STAR gặp ông K, tại đây A đưa giấy tờ liên quan đến xe ô tô và giấy CMND đã chỉnh sửa cho ông K xem. Sau khi kiểm tra thấy giấy tờ xe và CMND giống nhau, ông K nghĩ Tr là Lê Minh P nên đồng ý cầm cố xe ô tô. Tr là người viết giấy mượn của ông K số tiền 50.000.000 đồng và ký tên Lê Minh P và ông K đưa cho Tr 47.500.000 đồng vì đã tính trừ lãi trước 15 ngày là 2.500.000 đồng. Nhận tiền xong, Tr trả tiền cà phê hết 100.000 đồng rồi đưa toàn bộ số tiền cầm cố được cho A và cả hai đón xe taxi đi về. Trên đường về, A đưa cho Tr 1.500.000 đồng. Sau đó vài ngày, A nhờ một người lái xe ôm mang 2.000.000 đồng đến tiệm Thanh Hà trả tiền thuê xe cho ông Th, số tiền còn lại A tiêu xài cá nhân hết.
Ngày 24/01/2018, do quá thời hạn thuê xe đã lâu nhưng không thấy A mang xe đến trả nên ông Th nghi ngờ và tìm hiểu thì biết xe ô tô của ông bị A lừa đảo đem đi cầm cố cho ông K (theo bản Kết luận định giá tài sản thì xe ô tô có trị giá 210.000.000 đồng).
Hiện nay, có những quan điểm khác nhau về xác định tội danh đối với A, Tr và xác định tư cách tố tụng của P, Th, K trong vụ án trên, cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất: A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với bà P và ông Th theo điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS; Tr phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm c khoản 2 Điều 323 BLHS, bởi lẽ:
A nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe ô tô của bà P và ông Th trước khi thuê xe ô tô của P và Th nên A đã thuê xe ô tô của P và Th với mục đích bất hợp pháp là đi cầm cố, đồng thời A còn đưa cho ông Th chiếc xe mô tô của mình để làm tin. Như vậy A đã dùng thủ đoạn gian dối khiến ông Th, bà P tin tưởng và giao xe cho sử dụng. Hành vi này của A đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS và bà P, ông Th được xác định với tư cách tố tụng và bị hại trong vụ án.
Đối với hành vi của Tr, Tr phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Bởi lẽ, theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30/11/2011 và hướng dẫn tại khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán TANDTC và những tình tiết có trong vì án này thì Tr biết được xe ô tô mà A có là do đi thuê mà có, không cần biết việc đi thuê là hợp pháp hay không hợp pháp nhưng vì là tài sản đi thuê tức là xe ô tô không thuộc sở hữu của A và Tr hoàn toàn biết theo lẽ thông thường thì A không được phép cầm cố/bán... dưới bất cứ hình thức nào. Tr chấp nhận giúp A giả làm chủ xe thông qua việc đưa cho A ảnh thẻ để A dán vào CMND mà A đã chỉnh sửa trước đó mang tên Lê Minh P khớp với thông tin trên Giấy chứng nhận đăng ký xe của Lê Minh P nhằm cầm cố chiếc xe này. Hành vi của Tr đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm c khoản 2 Điều 323 BLHS.
Quan điểm thứ hai: A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với ông K và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đối với bà P và ông Th; Tr phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với ông K bởi lẽ:
Trong vụ án này, A thuê xe của P và Th là hợp pháp, A cung cấp thông tin thật và dùng giấy tờ thật của mình để thuê xe chứ không có thủ đoạn gian dối. Còn đối với ông K, A có hành vi làm giả bản photo giấy CMND mang tên Lê Minh P có dán ảnh của Mạnh Kim Tr trùng với thông tin trong giấy đăng ký xe ô tô; Tr đóng giả là Lê Minh P khiến ông K tin và đồng ý cho cầm cố xe ô tô. Như vậy, A và Tr đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho ông K tin Tr là Lê Minh P rồi đồng ý nhận cầm cố xe và chuyển cho Tr số tiền 47.500.000 đồng. Như vậy, ông K là bị hại của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của A và Tr chứ không phải là bà P và ông Th.
Trong vụ án này, ngoài hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản với ông K, A còn có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của bà P và ông Th bởi lẽ A có hành vi thuê xe ô tô của bà P và ông Th thông qua hợp đồng thuê tài sản nhưng sau đó đã sử dụng tài sản này vào mục đích bất hợp pháp là cầm cố bất hợp pháp chiếc xe cho ông K sau đó không có khả năng trả lại chiếc xe, do vậy hành vi của A cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và bị hại là bà P và ông Th.
Trên đây là một số vấn đề cần trao đổi nhằm xác định đúng hành vi phạm tội và tư cách tham gia tố tụng trong vụ án, rất mong nhận được sự phản hồi và trao đổi cùng với quý bạn đọc.
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” - Ảnh: Trọng Triển
Bài liên quan
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Khánh thành tượng đài “Bác Hồ với chiến sĩ biên phòng” tại cửa khẩu quốc tế Cầu Treo
-
Sắp diễn ra Tuần lễ Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu 2024
-
Khai mạc Festival “Về miền ví, giặm – Kết nối tinh hoa di sản”
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Hội thảo khoa học "200 ngày tập kết ra Bắc tại Cà Mau - tầm nhìn chiến lược và giá trị lịch sử"
Bình luận