Án lệ của Tòa án tối cao Hàn Quốc

Hàn Quốc là quốc gia theo truyền thống luật dân sự, vì vậy, về nguyên tắc, án lệ không được coi là nguồn luật nên không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, án lệ của Tòa án tối cao có hiệu lực ràng buộc mạnh mẽ đối với Tòa án cấp dưới. Dưới đây, xin được trao đổi về quy trình xét xử, cấu trúc bản án và hiệu lực ràng buộc của án lệ của Tòa án tối cao Hàn Quốc.

1. Hệ thống Tòa án Hàn Quốc

Chương V Hiến Pháp Hàn Quốc quy định về Tòa án. Theo quy định tại Điều 101 của Chương này và Điều 3 Luật Tổ chức Tòa án Hàn Quốc năm 2010, thì hệ thống Tòa án Hàn Quốc gồm: Tòa án tối cao, Tòa án cấp cao (Tòa Thượng thẩm) đặt tại 05 thành phố lớn, Tòa án bằng phát minh sáng chế (chỉ có một Tòa, ngang cấp với Tòa án cấp cao), Tòa án cấp quận (gồm 18 Tòa án, các Tòa án này có các chi nhánh ở địa phương), một Tòa án gia đình và một Tòa án hành chính (hai Tòa án này ngang cấp với Tòa án cấp quận). Tòa án Hiến pháp là một thiết chế riêng, được quy định tại Chương VI của Hiến pháp.

Với vị trí là Tòa án cao nhất, Tòa án tối cao có thẩm quyền xét xử kháng cáo các bản án hoặc quyết định của các Tòa án cấp cao, của Tòa án bằng phát minh sáng chế, các bản án phúc thẩm của Tòa án quận và Tòa án gia đình, Tòa án hành chính, trong các vụ án dân sự, hình sự, hành chính, bằng sáng chế và quan hệ gia đình. Trong một số trường hợp đặc biệt theo luật định, Tòa án tối cao xét xử các kháng cáo đối với bản án sơ thẩm; xem xét lại phán quyết của Ủy ban An toàn hàng hải Hàn Quốc. Tòa án tối cao cũng có thẩm quyền duy nhất xem xét tính hợp lệ của cuộc bầu cử Tổng thống hoặc bầu cử Quốc hội, có quyền đưa ra phán quyết cuối cùng về tính hợp hiến hoặc tính hợp pháp của các nghị định, quy định hoặc hành vi hành chính, khi tính hợp hiến hoặc hợp pháp của chúng được xem xét tại tòa.

Đối với các vụ án hình sự, việc kháng cáo lên Tòa án tối cao được thực hiện dựa trên những căn cứ sau :

1. Bản án đã vi phạm Hiến pháp, pháp luật, nghị định hoặc quy định;

2. Cần phải bãi bỏ, thay đổi hoặc miễn hình phạt của bản án đã tuyên;

3. Có lý do yêu cầu phúc thẩm; hoặc

4. Có lỗi nghiêm trọng trong việc thu thập chứng cứ hoặc đánh giá không đúng tính chất của vụ án trong việc tuyên án tử hình, tù chung thân hoặc hình phạt tù trên 10 năm.

Đối với các vụ án dân sự, căn cứ cho việc kháng cáo lên Tòa án tối cao bao gồm:

1. Phán quyết của Tòa không dựa trên pháp luật;

2. Một Thẩm phán theo quy định của pháp luật không được tham gia xét xử nhưng đã tham gia xét xử;

3. Vi phạm các quy định liên quan đến thẩm quyền xét xử riêng biệt;

4. Người đại diện pháp lý hoặc luật sư không được tham gia thích hợp trong quá trình tố tụng;

5. Vi phạm các quy định liên quan đến nguyên tắc tranh luận công khai; hoặc

6. Bản án không có phần lập luận hoặc phần lập luận không nhất quán.

2. Quy trình xét xử của Tòa án tối cao

Tòa án tối cao Hàn Quốc gồm một Chánh án và 13 Thẩm phán, trong đó một Thẩm phán làm Bộ trưởng quản lý Tòa án. Do đó, chỉ có Chánh án và 12 Thẩm phán thực hiện chức năng xét xử và được chia thành ba Hội đồng xét xử nhỏ.

Thông thường, việc xét xử được các Hội đồng xét xử nhỏ thực hiện, tuy nhiên, nếu Hội đồng này không biểu quyết được thì vụ việc sẽ được đưa ra Hội đồng xét xử lớn gồm 13 Thẩm phán xem xét. Ngoài trường hợp này, Hội đồng xét xử lớn còn xét xử những vụ án thuộc một trong các trường hợp sau đây:

(i) Khi có bất kỳ nghị định, quy định hoặc hành vi hành chính nào bị coi là trái Hiến pháp hoặc trái pháp luật;

(ii) Khi thấy cần phải thay đổi quan điểm trước đây của Tòa án tối cao về việc giải thích và thực hiện Hiến pháp, luật, chỉ thị, quy tắc (nói cách khác là cần sửa đổi án lệ); và

(iii) Khi việc xét xử bằng Hội đồng xét xử nhỏ được xem là không phù hợp.

Giúp việc cho các Hội đồng xét xử là các Nghiên cứu viên xét xử. Tòa án tối cao có khoảng 120 nghiên cứu viên xét xử, trong đó gồm: 10 người là Giáo sư, Tiến sĩ luật học, chuyên gia về pháp luật nước ngoài; 10 người là những luật sư trẻ có kinh nghiệm 3 năm trong nghề; trong số 100 người còn lại có hai Thẩm phán cấp cao có thâm niên từ 23 đến 27 năm, những người khác thì đều là những Thẩm phán có thâm niên từ 13 đến 19 năm (như vậy là mỗi Thẩm phán có 10 Nghiên cứu viên xét xử giúp việc).

Khi vụ việc được đưa lên Tòa án tối cao, trước hết những nghiên cứu viên xét xử sẽ xem xét, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng các tình tiết của vụ việc, rà soát xem có án lệ trước đó có thể áp dụng cho vụ việc hay không, có tài liệu nghiên cứu hoặc án lệ tham khảo trong nước hoặc nước ngoài hay không. Từ đó đưa ra những phương án giải quyết vụ việc, phân tích ưu điểm, nhược điểm của từng phương án đó. Nếu cần xem xét thêm, Thẩm phán Tòa án tối cao sẽ cùng nghiên cứu sâu thêm và sau đó thảo luận cùng các Nghiên cứu viên xét xử. Các Thẩm phán Tòa án tối cao sẽ đưa ra kết luận dựa trên kết quả của cuộc thảo luận này, nếu các Thẩm phán ở Hội đồng xét xử nhỏ thống nhất với nhau thì vụ việc sẽ được quyết định ở Hội đồng này, trường hợp không thống nhất, vụ việc sẽ được đưa ra xem xét tại Hội đồng xét xử lớn.  

3. Cấu trúc của bản án của Tòa án tối cao

Cũng như bản án của nhiều Tòa án tối cao trên thế giới, bản án của Tòa án tối cao Hàn Quốc được viết theo phương pháp tam đoạn luận: các nguyên tắc pháp lý và giải thích các nguyên tắc này là tiền đề lớn, các tình tiết quan trọng của vụ án là tiền đề nhỏ, và quyết định của thẩm phán là kết luận. Từng vấn đề cần giải quyết của vụ án đều được viết theo phương pháp này. Xin dẫn dưới đây một phần bản án của Tòa án tối cao Hàn Quốc để hiểu rõ cách viết tam đoạn luận của bản án:

“2. Đối với bị cáo 3, 4, 5

“Lỗi cố ý trong tội giết người chỉ cần nhận thức hoặc thấy trước sự thật là người bị hại có thể chết do hành vi của mình gây ra là đủ mà không cần mong muốn người bị hại chết hoặc có mục đích giết chết người bị hại, chỉ cần có lỗi cố ý gián tiếp là đủ chứ không cần có lỗi cố ý trực tiếp (Tham khảo Bản án số 97/DO/3231 ngày 24-3-1998 của Tòa án tối cao)”. Đây là tiền đề lớn, nêu rõ nguyên tắc pháp lý và án lệ của Tòa án tối cao trong việc xác định lỗi cố ý giết người.Tiền đề nhỏ được viết như sau:

“Nếu tình tiết của vụ án giống với nội dung mà Bản án sơ thẩm xác nhận một cách hợp lệ được Tòa án phúc thẩm giữ nguyên, mặc dù bị cáo 3, 4 - người đã trực tiếp thực hiện hành vi gây hại cho người bị hại chủ yếu đâm vào đùi hoặc bắp chân không phải là phần trọng yếu trên cơ thể như đầu hoặc ngực của nạn nhân nhưng do các bị cáo đã dùng dao đâm rất mạnh trên 20 nhát vào nạn nhân dẫn đến nạn nhân bị chết vì mất máu quá nhiều nên không thể xem là các bị cáo 3, 4 không nhận thức được việc người bị hại có thể chết do hành vi gây hại của mình, mà ngược lại có thể xem là bị cáo 3, 4 có lỗi cố ý gián tiếp. Ngoài ra không thể xem là bị cáo 5 - người đã chỉ đạo bị cáo 3, 4 ở hiện trường gây án cũng không thấy trước được việc bị cáo 3, 4 có thể giết người bị hại”. Và kết luận: “Nên việc Tòa phúc thẩm nhận định rằng bị cáo 3, 4 và bị cáo 5 có lỗi cố ý giết người là có căn cứ và không thể cho rằng nhận định đó vi phạm pháp luật vì hiểu sai nguyên tắc pháp lý về “lỗi cố ý trong tội giết người” hoặc nhận định sai sự thật khách quan của vụ án như được đưa ra trong lý do kháng cáo”.

4. Hiệu lực ràng buộc của án lệ của Tòa án tối cao

Về mặt lý thuyết, án lệ của Tòa án tối cao không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, án lệ của Tòa án tối cao có hiệu lực ràng buộc rất lớn. Trong trường hợp bản án bị kháng cáo lên Tòa án tối cao, thông thường bản án sẽ được kết luận theo án lệ trước đó. Vì vậy, khi xét xử, các Thẩm phán ở các Tòa án cấp dưới luôn tìm kiếm, tra cứu xem có án lệ nào của Tòa án tối cao đã giải quyết vấn đề pháp lý trong vụ việc mà mình giải quyết hay không. Họ không muốn bản án của mình bị hủy chỉ vì không tuân theo án lệ của Tòa án tối cao, bởi lẽ, nếu tỷ lệ có nhiều án bị Tòa án cấp trên hủy thì sẽ ảnh hưởng đến việc đánh giá năng lực và thành tích công tác của họ. Trong trường hợp thấy không tuân theo án lệ sẽ hợp lý hơn thì thẩm phán không cần phải giải thích lý do, tuy nhiên họ sẽ đưa ra những lập luận chi tiết để Tòa án cấp trên hiểu rõ vì sao họ lại đưa ra kết luận như vậy. Với những trường hợp này, giả sử bản án có bị hủy thì cũng không ảnh hưởng đến việc đánh giá Thẩm phán.

Sau khi tuyên án, án lệ của Tòa án tối cao có hiệu lực ngay mà không cần qua thủ tục tuyển chọn, công bố nên không phát sinh các vấn đề do chậm trễ áp dụng án lệ gây ra. Khi cần bãi bỏ án lệ trước đó, thì Hội đồng xét xử lớn sẽ tuyên ngay tại bản án xét xử vụ việc bị kháng cáo mà không cần phải có một thủ tục bãi bỏ riêng. Vì thế khi áp dụng án lệ, các Thẩm phán luôn chú ý tra cứu để biết được án lệ nào đã bị bãi bỏ, thông tin về vấn đề này cũng được trao đổi thông qua các hội nghị, hội thảo trong nội bộ Tòa án.

Kết luận: Kinh nghiệm của Tòa án tối cao Hàn Quốc trong việc tổ chức đội ngũ Nghiên cứu viên xét xử, quy trình xem xét vụ việc tại Tòa án tối cao, cách viết bản án và cách thức công bố cũng như bãi bỏ án lệ của Tòa án tối cao Hàn Quốc rất đáng được tham khảo trong việc hoàn thiện quy định về áp dụng án lệ ở nước ta.

NGÔ CƯỜNG

Tài liệu tham khảo

1. Hiến pháp Hàn Quốc năm 1987.

2. Luật Tổ chức Tòa án Hàn Quốc năm 2010.

3. Báo cáo về Hàn Quốc (Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp ở năm nước chọn lọc: Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Cộng hòa Hàn Quốc và Liên bang Nga), do Đại học SYDNEY thực hiện cho Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc, Việt Nam, tháng 6/2010.

4. GS. Tiến sĩ Yong Kim, Khoa luật Đại học Yonsei Seoul, Hàn Quốc - Tiền lệ và luật Hàn Quốc, đăng trong Án lệ và pháp luật, Báo cáo cho Đại hội lần thứ 17 của Học viện Luật so sánh quốc tế, Nxb. Bruylant Bruxelles, 2007.

5. Tài liệu Hội thảo “Cấu trúc án lệ và nâng cao hiệu quả áp dụng án lệ trong thực tiễn” được tổ chức trong khuôn khổ Dự án KOICA, tháng 11/2017.

Trụ sở Tòa án tối cao Hàn Quốc - Ảnh: HVTA.