Án tích - quy định và vướng mắc trong thực tiễn

Án tích là một trong những chế định quan trọng của pháp luật hình sự Việt Nam, liên quan đến nhiều quy định khác ở phần chung cũng như phần các tội phạm trong luật hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định về án tích, xóa án tích còn có những vướng mắc, bất cập cần khắc phục.

1. Chế định án tích

Một trong những nguyên tắc chủ đạo của chính sách hình sự Việt Nam là trừng trị kết hợp với sự khoan hồng. Quy định về chế định án tích một mặt thể hiện rõ chính sách nhân đạo của Nhà nước, tính nhân văn và tôn trọng quyền con người, quyền của tổ chức, cá nhân thông qua các quy định nếu người hoặc pháp nhân thương mại bị kết án, đã thi hành xong bản án và đáp ứng các điều kiện luật định thì sẽ được xóa án tích, họ coi như chưa bị kết án và không bị hạn chế quyền lợi so với những người khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong quá trình tái hòa nhập cộng  đồng, ổn định cuộc sống.

Tuy nhiên, chế định án tích cũng thể hiện rõ đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước ta trong vấn đề cần xử lý nghiêm khắc đối với người hoặc pháp nhân thương mại đã bị kết án, chưa xóa án tích mà tiếp tục phạm tội mới bằng quy định ở các nguyên tắc xử lý: “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm”[1]. Theo đó, nếu người người đang có án tích mà tiếp tục phạm tội mới, thuộc trường hợp tái phạm hay tái phạm nguy hiểm thì phải bị xử lý trách nhiệm hình sự (TNHS) với mức độ nghiêm khắc cao hơn so với người không có án tích.

Quy định như này có ý nghĩa rất lớn trong việc cá thể hóa hình phạt trong luật hình sự, đặc biệt là trong vụ án đồng phạm mà có người phạm tội có án tích, có người không có án tích. Đồng thời, án tích còn được pháp luật hình sự quy định là một trong những yếu tố để xác định cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng trong vấn đề định tội đối với người có án tích ở phần các tội phạm; là một trong các căn cứ để xem xét quyết định hình phạt khi xét xử thông qua việc đánh giá người có án tích là người có nhân thân xấu, có thể phải bị áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm nên đối với người phạm tội đang mang án tích luôn phải gánh chịu những hệ quả pháp lý bất lợi hơn so với những người bình thường phạm tội.

Với tầm quan trọng đó, án tích luôn là một chế định không thể thiếu trong pháp luật hình sự không chỉ riêng Việt Nam mà các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, chế định án tích được quy định ngay từ khi Bộ luật Hình sự (BLHS) đầu tiên năm 1985, kế tiếp là BLHS năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã quy định khá đầy đủ, chặt chẽ về chế định án tích. Trải qua quá trình áp dụng thực tiễn, chế định này được sửa đổi, bổ sung theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn trong BLHS năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), khắc phục những hạn chế, thiếu sót của các quy định trước đó về chế định án tích, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan áp dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả.

Án tích là đặc điểm xấu (hậu quả) về nhân thân của người hoặc pháp nhân thương mại bị kết án và áp dụng hình phạt được ghi và lưu lại trong lí lịch tư pháp trong thời gian luật định. Án tích không phải là đặc điểm về nhân thân có tính vĩnh viễn. Sau một thời gian và kèm theo điều kiện cụ thể theo quy định của pháp luật, án tích sẽ được xóa đương nhiên hoặc được xóa theo quyết định của Tòa án. Án tích là một trong những chế định quan trọng của pháp luật hình sự Việt Nam, liên quan đến nhiều quy định khác ở phần chung cũng như phần các tội phạm trong luật hình sự.

Việc nghiên cứu chế định án tích cần phải tiến hành toàn diện, không chỉ dừng lại ở quy định về xóa án tích mà còn phải nghiên cứu dưới góc độ người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội mới trong thời gian đang có án tích để xác định vấn đề định tội, định khung tăng nặng và tình tiết tăng nặng TNHS trong việc áp dụng pháp luật. Án tích có ý nghĩa quan trọng cả về mặt chính trị pháp – pháp lý và mặt xã hội nên cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Chế định án tích có ý nghĩa rất quan trọng trong vấn đề xác định yếu tố cấu thành tội phạm, việc áp dụng tình tiết định khung cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS trong vấn đề xử lý tội phạm.

Quy định về chế định án tích trong BLHS năm 2015 đã thể hiện bước phát triển mới trong lĩnh vực lập pháp khi có đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung mới mang tính phù hợp hơn so với nhu cầu thực tiễn, khắc phục được những hạn chế của BLHS năm 1999 về chế định này. Tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác xử lý tội phạm.

Bên cạnh những ưu điểm thì các quy định về chế định án tích trong BLHS năm 2015 vẫn còn bộc lộ những hạn chế cả về mặt lập pháp lẫn công tác thực thi pháp luật cần phải tiếp tục được nghiên cứu để đưa ra các định hướng nhằm hoàn thiện hơn về chế định án tích trong thời gian tới.

2. Những bất cập, vướng mắc trong lĩnh vực lập pháp

Thứ nhất, BLHS năm 2015 quy định về thời hạn xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi chưa hợp lý. Căn cứ để tính thời hạn xóa án tích đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên là dựa vào hình phạt chính mà Tòa án đã tuyên (khoản 1 Điều 73 BLHS năm 2015). Trong khi căn cứ để xác định thời hạn xóa án tích đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội lại không dựa vào hình phạt chính mà Tòa án tuyên, mà đối với đối tượng này thời hạn xóa án tích luôn luôn là 03 năm nếu phạm vào loại tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hay đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 107 BLHS năm 2015) dù Tòa án áp dụng hình phạt chính là hình phạt gì, mức hình phạt bao nhiêu cũng không ảnh hưởng đến thời hạn xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết án.

Phải chăng theo quy định tại khoản 2 Điều 107 BLHS năm 2015 thì căn cứ để xác định thời hạn xóa án tích đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là dựa vào loại tội phạm và lỗi, nếu căn cứ vào các yếu tố này liệu có hợp lý không khi hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế có thể thuộc loại tội phạm giống nhau nhưng mức độ nguy hiểm cho xã hội lại có sự khác nhau, vì vậy hình phạt áp dụng sẽ khác nhau.

Thứ hai, BLHS năm 2015 chưa có quy định về xóa án tích trong trường hợp đặc biệt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án. Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt là xóa án tích do Tòa án quyết định nhưng ở thời điểm sớm hơn khi thỏa mãn các điều kiện đặc biệt, quy định này nhằm khuyến khích người bị kết án cải tạo tốt, lập công để sớm được xóa án tích. Điều 72 BLHS năm 2015 quy định người bị kết án phải đảm bảo được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này thì mới có thể được xóa án tích trong trường hợp đặc biệt. Điều 72 BLHS năm 2015 không hề đề cập đến việc xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp đặc biệt.

Bên cạnh đó trong quy định riêng về xóa án tích đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng không hề quy định.

Thứ ba, theo khoản 4 Điều 70 BLHS 2015 thì Toà án sẽ không cấp giấy chứng nhận xoá án tích trong trường hợp đương nhiên được xoá án tích mà cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích cho người này. Do đó, cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp để nâng cao trách nhiệm và chủ động trong việc theo dõi, cập nhật thông tin về án tích, đặc biệt là trong việc tiến hành xác minh các điều kiện đương nhiên xóa án tích để bảo đảm đáp ứng thời hạn cấp Phiếu Lý lịch tư pháp liên quan trường hợp đương nhiên xóa án tích.

Thứ tư, Điều 89 BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định về xóa án tích đương nhiên cho các pháp nhân thương mại bị kết án nhưng không giao cho cơ quan nào có trách nhiệm quản lý, theo dõi. Tuy nhiên, Điều 446 của BLTTHS năm 2015 đã quy định về thủ tục đương nhiên xóa án tích đối với pháp nhân. Theo đó, “Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của pháp nhân được đương nhiên xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện quy định tại Điều 89 của Bộ luật Hình sự thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án cấp giấy chứng nhận pháp nhân đã được xóa án tích”. Như vậy có thể thấy, theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì việc theo dõi và cấp giấy chứng nhận pháp nhân thương mại bị kết án đương nhiên được xóa án tích do Tòa án thực hiện. Từ đây, đặt ra một vấn đề là cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp có cần thiết lập hồ sơ án tích của pháp nhân để theo dõi và cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay không cũng cần phải có hướng dẫn cụ thể.

3. Những bất cập, vướng mắc trong lĩnh vực áp dụng pháp luật

Thứ nhất, bất cập trong việc xác định án tích (tiền án) để áp dụng tình tiết định tội, tình tiết định khung và tình tiết tăng nặng TNHS. Thực tiễn hiện nay có nhiều quan điểm không thống nhất khi một người hoặc pháp nhân thương mại đã bị kết án chưa được xóa án tích mà phạm tội mới. Trong các lần phạm tội mới này, có lần hành vi đủ yếu tố cấu thành tội phạm độc lập, có lần hành vi chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì việc xem xét áp dụng tình tiết “Tái phạm” trong trường hợp này chưa thống nhất.

Thứ hai, khoản 1 Điều 69 BLHS quy định: “Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án”. Theo đó, trường hợp đã được xóa án tích được hiểu khi án tích đã được xóa thì phải coi như họ chưa từng bị kết tội, không còn vết tích gì về tội phạm trước đó nữa nên họ được hưởng quyền bình đẳng như các cá nhân khác. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Công văn giải đáp nghiệp vụ số: 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của TANDTC thì: “Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu”.

Theo tác giả, cách hướng dẫn và áp dụng hiện nay trong thực tiễn đối với việc người phạm tội đã được xóa án tích nhưng khi phạm tội mới thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng cũng không được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” là chưa phù hợp với thực tế, đã hạn chế quyền của cá nhân và không phù hợp với quy định của BLHS năm 2015 khi quy định: Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án.

 

 

 

 Một phiên tòa xét xử trực tuyến tại TAND Tp Pleiku - Ảnh: PV 

 

[1] Điểm c, khoản 1, Điều 3 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tr.06.

 

 

Thẩm phán LÊ VĂN NHÀN (Chánh án TAND TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai)