Lấy lời khai đương sự của Tòa án theo tố tụng dân sự, một số bất cập và kiến nghị

Việc lấy lời khai là cách thức thu thập chứng cứ được Tòa án sử dụng phổ biến nhất trong quá trình giải quyết vụ án dân sự (VADS), giúp Tòa án nắm bắt một cách nhanh nhất nội dung vụ án. Lời khai của đương sự không phải là chứng cứ duy nhất để kết luận bản chất của vụ án. Do đó, việc lấy lời khai của đương sự có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết VADS.

Đương sự là người có quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với vụ án, họ là người liên quan trực tiếp đến các tình tiết, biết rõ nội dung vụ kiện, tình trạng pháp lý đã và đang tồn tại như thế nào trên thực tế. Có thể nói mọi vấn đề, yêu cầu của đương sự đều xuất phát từ lời khai, lời trình bày của họ và mọi vấn đề mâu thuẫn đều xuất phát từ những lời trình bày, lời khai của các đương sự trong vụ kiện. Vì vậy, việc lấy lời khai là cách thức thu thập chứng cứ được Tòa án sử dụng phổ biến nhất trong quá trình giải quyết vụ án dân sự (VADS), giúp Tòa án nắm bắt một cách nhanh nhất nội dung vụ án. Lời khai của đương sự không phải là chứng cứ duy nhất để kết luận bản chất của vụ án. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Tòa án sẽ đánh giá từng lời khai, trình bày của đương sự nào là đúng, là chính xác và có cơ sở. Do đó, việc lấy lời khai của đương sự có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết VADS, góp phần giải quyết vụ án được đúng đắn, toàn diện.

1.Quy định về lấy lời khai của đương sự theo Điều 98 BLTTDS 2015

Biện pháp lấy lời khai của đương sự được Tòa án thực hiện chủ động, thường xuyên trong việc thu thập chứng cứ, được tiến hành trong hầu hết các vụ, việc dân sự với những điều kiện áp dụng và thẩm quyền áp dụng như sau:

– Về điều kiện: Trong trường hợp đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung của bản khai chưa đầy đủ thì Thẩm phán yêu cầu đương sự phải tự viết bản khai hoặc bản khai bổ sung và ký tên của mình. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự đã khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Chỉ trong trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tòa án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản. Việc lấy lời khai của đương sự được thực hiện tại trụ sở Tòa án.

Trong những trường hợp đương sự không thể đến trụ sở Tòa án được vì những lý do khách quan chính đáng (đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, mới sinh con, bị ốm đau, bệnh tật,…), thì có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Tòa án. Việc lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Tòa án phải bảo đảm đúng quy định của pháp luật, quy định đối với công chức Tòa án nhân dân (TAND) và bảo đảm khách quan (ví dụ: lấy lời khai của đương sự đang bị tạm giam phải được thực hiện tại Trại tạm giam theo bố trí của Ban Giám thị Trại tạm giam; lấy lời khai của đương sự bị ốm đau nhưng không đi điều trị tại cơ sở y tế phải được thực hiện tại nơi họ đang điều trị và nếu xét thấy cần thiết thì mời người chứng kiến…). Trường hợp biên bản ghi lời khai của đương sự được lập ngoài trụ sở Tòa án thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản.

Đối với việc lấy lời khai của đương sự là người chưa đủ 6 tuổi hoặc người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự phải được tiến hành với sự có mặt của người đại hiện hợp pháp của đương sự đó. Vì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Trong trường hợp này, biên bản lấy lời khai của họ do người đại diện hợp pháp của họ ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào biên bản ghi lời khai.

Sau khi lấy lời khai xong, phải cho đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ vào biên bản; đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai và phải có chữ ký của đương sự hoặc của người đại diện hợp pháp của đương sự xác nhận vào việc sửa đổi, bổ sung hoặc chỗ xóa đó. Trong trường hợp có yêu cầu sửa đổi, bổ sung thì việc sửa đổi, bổ sung phải được ghi tiếp theo lời khai đã ghi, không nên viết đè lên chỗ đã xóa hoặc viết chèn thêm vào dòng đã viết hoặc dùng bút xóa xóa rồi viết đè lên, việc xóa phần lời khai mà đương sự yêu cầu phải được gạch bỏ.

Kết thúc biên bản, cần ghi rõ biên bản đã được đương sự tự đọc lại hoặc được nghe lại (nếu đương sự không biết chữ), công nhận nội dung ghi trong biên bản đúng lời trình bày, ý chí của họ và yêu cầu đương sự ký tên, ghi rõ họ tên hoặc điểm chỉ. Nếu điểm chỉ cần lưu ý ghi rõ ngón tay nào điểm chỉ và ghi rõ họ tên người điểm chỉ. Sau đó, nếu có Thư ký ghi bên bản thì Thư ký và Thẩm phán cũng phải ký vào biên bản.

Ngoài ra, hình thức biên bản ghi lời khai của đương sự phải đảm bảo đúng theo Mẫu số 02-DS ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về việc ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự (Nghị quyết số 01). Nếu biên bản được ghi thành nhiều trang rời nhau thì đương sự phải ký vào từng trang và đóng dấu giáp lai. Biên bản ghi lời khai phải có xác nhận của Thẩm phán.

-Về thẩm quyền: Việc lấy lời khai của đương sự phải do Thẩm phán tiến hành. Thư ký Tòa án chỉ có thể giúp Thẩm phán ghi lời khai của đương sự vào biên bản. Trường hợp vì lý do công tác hoặc trở ngại khách quan thì Thẩm phán có thể giao cho Thư ký Tòa án tiến hành lấy lời khai nếu đương sự đồng ý.

2. Một số bất cập và đề xuất, kiến nghị

Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật, theo quan điểm của tác giả quy định về lấy lời khai của đương sự còn một số hạn chế, bất cập từ chính quy định “nội hàm” của điều luật này như:

– Thứ nhất, như thế nào là “bản khai của đương sự chưa đầy đủ, rõ ràng”? Điều này có thể hiểu, đương sự là người biết chữ, có thể tự viết bản tự khai nhưng khai không “theo ý” xây dựng hồ sơ của Thẩm phán đang phụ trách thụ lý giải quyết, để rồi Thẩm phán “hướng dẫn” khai lại.

– Thứ hai, như thế nào là “đương sự không thể tự viết được”? Việc không thể tự viết được không đồng nghĩa với việc đương sự không biết chữ hoặc người đó không đọc được, có thể đương sự bị “hạn chế” trong việc viết lời khai như: học vấn thấp, viết không “tròn vành, rõ chữ” nên khó đọc được, người khác đọc không hiểu được…, nhưng không có nghĩa là đương sự không có người thân để viết thay họ lời khai, lời trình bày của mình để nộp bản tự khai cho Tòa theo ý chí của mình…

– Thứ ba, luật quy định việc lấy lời khai chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa rõ ràng nhưng lại không quy định giới hạn số lần lấy lời khai của đương sự và quy định nội dung bắt buộc của việc lấy lời khai của đương sự lần sau phải khác lần trước.

Chính những quy định này có thể xảy ra hiện tượng Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký ghi lại lời khai của đương sự không đúng lời khai, suy nghĩ, ý chí mong muốn của đương sự, dẫn đến có thể làm sai lệch bản chất vụ án. Hoặc có thể xảy ra hiện tượng lạm dụng việc lấy lời khai của đương sự của người tiến hành tố tụng không bị giới hạn nhằm hướng tới mục đích, ý chí mà Thẩm phán thụ lý, giải quyết đã định ra.

Thực tế cho thấy, trong một số vụ án lời khai của đương sự ở mỗi thời điểm khác nhau (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa; ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm) có lời trình bày, lời khai khác nhau, mâu thuẫn nhau, làm khó khăn trong việc đánh giá chứng cứ cho Tòa án. Thư ký, Thẩm tra viên và Thẩm phán đã “cố tình” ghi lại nội dung lời khai không đúng với nội dung, ý chí trình bày của người đã khai. Khi đó, giá trị chứng minh của Biên bản lấy lời khai của đương sự sẽ tùy vào cách đánh giá, nhận định của mỗi Thẩm phán, mỗi cấp Tòa.

Tác giả xin nêu ra hai vụ án giả định sau đây để chứng minh :

+ Vụ án thứ nhất: Đương sự không thừa nhận biên bản ghi lời khai do Tòa án và cơ quan có thẩm quyền lập. Trong vụ án tranh chấp tài sản chung giữa nguyên đơn D (cha của anh V) với bị đơn là chị C. Trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn trước đó giữa anh V với chị C (chị C là nguyên đơn), lời khai của anh V có lúc trình bày tài sản chung của vợ chồng, có lúc trình bày tài sản đó là của cha anh (ông D). Còn ông D có lúc trình bày tài sản vợ chồng V, C là do ông D bỏ tiền ra tạo lập, có lúc ông trình bày không yêu cầu Tòa giải quyết vì ông không thể cung cấp chứng cứ chứng minh. Tòa án hai cấp tỉnh P đã công nhận tài sản tranh chấp là của vợ chồng V, C. TAND cấp cao hủy cả hai bản án sơ thẩm, phúc thẩm vì cho rằng Tòa án hai cấp tỉnh P vì không làm rõ lời khai của ông D, anh V; chưa xác minh, thu thập chứng cứ đầy đủ mà căn cứ vào lời khai của chị C để kết luận công nhận tài sản đang tranh chấp là của vợ chồng V, C là không có cơ sở vững chắc, chưa đánh giá toàn diện vụ án và chưa làm rõ bản chất vụ án.

Khi giải quyết lại, anh V thay đổi lời khai và cho rằng anh là người ít học nên không tự viết lời khai mà cán bộ Tòa án lấy lời khai, nên anh không đọc nội dung biên bản lấy lời khai. Nay anh nộp đơn trình bày và khẳng định tài sản vợ chồng có được do cha anh (ông D) bỏ tiền ra tạo lập, anh chị chỉ là người đứng tên trên giấy tờ.

+ Vụ án thứ hai: Đương sự có nhiều lời khai mâu thuẫn thì việc xem xét, đánh giá phải dựa trên sự thật khách quan được làm rõ.

Ngày 10/4/2012, bà Trần Thị Bạch T khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế với bị đơn ông Trần Đức S. Các bên đương sự thừa nhận trước khi chết cụ Trần Đức T và cụ Võ Thị C có một thửa đất 510m2, trên đất có căn nhà cấp 4, tọa lạc tại số 05 Hoàng Diệu, phường 5, thành phố TH. Trong quá trình giải quyết bà T có lúc trình bày trước khi hai cụ mất đã trích một phần đất 200m2 hiến cho Nhà nước (phần này bà xin lại nhà nước và được cấp giấy) có lúc trình bày đất này do bà mua lại của hai cụ; một phần đã bán cho ông Trần Tú T, còn lại 198,3m2 ông S đã tự ý kê khai và được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông S.
Ngày 24/02/2014, TAND cấp cao tại ĐN xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và nhận định: Lời khai của bà T không thống nhất, không phù hợp với các chứng cứ có tại hồ sơ. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Biên bản lấy lời khai của bà T lần cuối cùng để chấp nhận di sản của cụ T, cụ C để lại chỉ gồm 01 căn nhà trên diện tích 198,3m2 là chưa đủ cơ sở vững chắc. Cần làm rõ lời khai của bà T là cụ C có hiến đất cho Nhà nước hay bán cho bà T. Nếu không thì có cơ sở xác định khối di sản là 510m2 (gồm của bà T, ông T, ông S) không.

Từ những bất cập thể hiện qua hai vụ án giả định nêu trên, theo quan điểm của tác giả, để bảo đảm nội dung lấy lời khai của đương sự đúng với ý chí, lời trình bày của đương sự, bảo đảm sự thật khách quan và quyền tự định đoạt của đương sự thì cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết về quy định lấy lời khai của đương sự theo quy định tại Điều 98 BLTTDS 2015. Theo đó, trên tinh thần kế thừa các nội dung quy định tại Điều 6 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC “Hướng dẫn thi hành về một số quy định về Chứng cứ – Chứng minh”, nhưng cần sửa đổi, bổ sung tại khoản 1, khoản 2 Điều 6 Nghị quyết này như sau:

1. Khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung của bản khai chưa đầy đủ, thì Thẩm phán yêu cầu đương sự phải tự viết hoặc nhờ người khác viết hộ bản khai hoặc bản khai bổ sung và ký tên hoặc điểm chỉ của mình. Chỉ trong trường hợp đương sự không thể tự viết được nhưng không có người khác viết hộ và có yêu cầu Tòa án lấy lời khai của mình, thì Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tòa án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản. Biên bản ghi lời khai của đương sự phải làm đúng quy định tại khoản 2 Điều 98 của BLTTDS 2015.

2. … Việc lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Tòa án phải có sự chứng kiến và xác nhận của người có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật, quy định đối với cán bộ, công chức TAND và bảo đảm khách quan (ví dụ: Lấy lời khai của đương sự đang bị tạm giam phải được thực hiện tại Trại tạm giam theo bố trí của Ban Giám thị Trại tạm giam; lấy lời khai của đương sự bị ốm đau nhưng không đi điều trị tại cơ sở y tế phải được thực hiện tại nơi họ đang điều trị và có sự chứng kiến của cán bộ địa phương nơi họ đang điều trị và xác nhận của người có thẩm quyền…).

– Thẩm quyền ghi lời khai của đương sự theo Điều 98 BLTTDS 2015 là do Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tòa án tiến hành, ngoài ra, trên thực tế khi giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm thì Thẩm tra viên cũng được tham gia tiến hành lấy lời khai và có quyền tự mình tiến hành lấy lời khai của đương sự trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm. Đây cũng là nhiệm vụ của Thẩm tra viên theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 50 BLTTDS 2015. Nhưng Điều 98 BLTTDS 2015 lại không quy định và cũng không quy định những trường hợp nào thì Thẩm tra viên được tiến hành lấy lời khai đương sự theo thủ tục giám đốc thẩm.

Do đó, theo quan điểm của tác giả, kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 98 và bổ sung khoản 4 Điều 98 BLTDS 2015 nội dung quy định như sau:

1 “… Thẩm phán, Thẩm tra viên tự mình hoặc Thư ký Tòa án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản…”

4. “Việc lấy lời khai và thủ tục lấy lời khai của đương sự trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều này.”

NGUYỄN HỮU DUYÊN (Tòa Dân sự, TAND tỉnh Phú Yên)