Hà Nội, những đường phố mang tên Luật gia nổi tiếng

Cùng với sự phát triển của Thủ đô, nhiều tuyến phố mới rộng rãi, khang trang được đặt theo tên danh nhân, trong đó có nhiều Luật gia nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam hiện đại như Nguyễn Hữu Thọ, Phan Văn Trường, Phạm Văn Bạch, Vũ Trọng Khánh…

Những đường phố đẹp

Nếu như ở nhiều quốc gia khác, đặt tên đường phố theo các con số thì Việt Nam có truyền thống đặt tên đường theo tên các vị danh nhân, họ là các vị anh hùng dân tộc, nhà văn hóa, nhà khoa học, văn nghệ sĩ… những người có đóng góp cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam ở các phương diện khác nhau. Trong số các danh nhân được đặt tên phố ở Hà Nội gần đây, có nhiều người là luật gia, luật sư mà tên tuổi của họ gắn liền với lịch sử đất nước trong thế kỷ XX đầy biến động.

Ở quận Cầu Giấy có đường phố mang tên nhà trí thức yêu nước Phan Văn Trường. Phan Văn Trường (1876-1933) là Tiến sĩ luật khoa đầu tiên của Việt Nam, ông còn là một học giả uyên bác, tinh thông cả Hán học và Tây học và là một tri thức yêu nước, tiến bộ.

Phố Phan Văn Trường bắt đầu từ phố Trần Quốc Hoàn gặp đường Nguyễn Phong Sắc đến đường Xuân Thủy. Tuyến phố thuộc xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm trước đây. Điều thú vị là tuyến phố rất gần với quê hương Đông Ngạc của ông và  Trường Đào tạo các chức danh Tư pháp đặt trên phố này (sau mới chuyển sang phố Trần Vĩ).

Phan Văn Trường người làng Đông Ngạc, Hà Nội, xuất thân từ một gia đình khoa bảng. Năm 1908, ông sang Pháp du học tại  Đại học Sorbonne và ngày 3/6/1922, ông trình luận án “Khảo luận về Luật Gia Long”, trở thành Tiến sĩ luật học đầu tiên của Việt Nam. Ông mở văn phòng luật sư và tham gia Đoàn Luật sư Paris, hành nghề tại Tòa Thượng thẩm Paris.

Tại Paris, ông tham gia những hoạt động yêu nước. Ông  cùng Phan Châu Trinh, lập ra “Hội đồng bào thân ái” do chính ông làm hội trưởng, là một trong những tổ chức đầu tiên của người Việt tại Pháp tập hợp những người Việt Nam sinh sống học tập lao động tại Pháp. Do hoạt động của hội này hai ông đã bị Pháp bắt và giam giữ gần một năm.

Cuối 1923, Tiến sĩ Phan Văn Trường quyết định về nước. Tại Sài Gòn, ông vừa hành nghề luật sư, vừa hợp tác với nhà yêu nước Nguyễn An Ninh cùng làm báo tranh đấu chống thực dân Pháp. Ông tham gia các hoạt động dân chủ của giới trí thức tiến bộ ở Sài Gòn đến phút cuối cùng của đời mình.

Phố Nguyễn Hữu Thọ nối từ cầu Tiên trên đường Giải Phóng đến Bắc Linh Đàm, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, dài 1.800m, rộng 21m, vỉa hè rộng rãi, có chỗ đến 20m. Tuyến phố bám sát ven hồ Linh Đàm, là một lá phổi xanh của khu vực. Đây là tuyến đẹp, gắn liền với các khu đô thị mới xây dựng Đại Kim, Bắc Linh Đàm sầm uất. Gần đó là bến xe Giáp Bát, bến xe Nước Ngầm…

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996) sinh tại huyện Bến Lức, Long An. Năm 1930 ông học luật ở Paris. Năm 1948 ông tham gia Mặt trận Liên Việt. Năm 1949 gia nhập Đảng Cộng sản. Những năm 50 ông hoạt động tích cực trong phong trào trí thức phản đối sự can thiệp của Mỹ vào Đông Dương, bị địch bắt giam 2 lần. Được tự do, ông hoạt động trong phong trào đòi hòa bình thống nhất đất nước. Năm 1960 ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Năm 1975, đất nước thống nhất, ông là đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước, Quyền Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

 

Phố Nguyễn Hữu Thọ

 

Phố Phạm Văn Bạch là đoạn đường từ ngã tư giao cắt phố Trung Kính, Dương Đình Nghệ đến vòng xoay nối các phố Tôn Thất Thuyết, Trần Thái Tông, thuộc địa bàn phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy. Phố Phạm Văn Bạch dài 500m, rộng 40m, hai bên đường là những công trình mới xây dựng khang trang, hiện đại với mật độ dân cư đông đúc. Điều thú vị là con đường mang tên cố Chánh án TANDTC  Phạm Văn Bạch là đường dẫn vào trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao, Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Trên phố Phạm Văn Bạch còn có nhiều công trình lớn như Viện Huyết học và truyền máu Trung ương, Báo Lao động, Đại sứ quán Hoa Kỳ, Văn phòng Kinh tế – Văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội…

Tiến sĩ Phạm Văn Bạch (1910-1987) sinh ngày 18/6/1910, tại làng Khánh Lộc, nay là xã Phước Hảo, huyện Châu Thành, Trà Vinh. Năm 1928, sau khi tốt nghiệp trung học, Phạm Văn Bạch được gia đình cho đi du học tại khoa Luật Trường Đại học Lyon (Pháp) và đỗ Cử nhân Luật, Cử nhân Triết học. Năm 1936, ông đỗ Tiến sĩ Luật tại trường Đại học Lyon với luận án “Hiến pháp Xô Viết và thực tiễn Xô Viết – Giải pháp đúng đắn cho vấn đề dân tộc và giai cấp”. Sau khi đỗ Tiến sĩ Luật học, Tiến sĩ Phạm Văn Bạch trở về Việt Nam, hành nghề luật sư và dạy học ở TP Cần Thơ.

 

Công bố tên phố Phạm Văn Bạch

 

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông được cử làm Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre. Năm 1946, ông giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Hành chính Nam bộ rồi Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ, kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam.

Tháng 9/1954, sau khi tập kết ra miền Bắc, ông giữ nhiều cương vị quan trọng.  Năm 1958, TANDTC được thành lập, năm 1959 Tiến sĩ Phạm Văn Bạch được Chủ tịch Hồ Chí Minh bầu làm Chánh án TANDTC và giữ chức vụ này cho đến khi nghỉ hưu  năm 1981. Trong thời gian làm Chánh án TANDTC, Tiến sĩ Phạm Văn Bạch còn được kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng khác.

Ông là một trí thức lớn, yêu nước, để lại dấu ấn tốt đẹp với bạn bè quốc tế, với ngành Tòa án nhân dân.

Hà Nội cũng vừa có quyết định đặt tên phố mang tên Luật sư Vũ Trọng Khánh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đầu tiên tại quận Hà Đông. Phố Vũ Trọng Khánh dài 1.210m. cắt đường Trần Phú, Hà Đông, đến phố Tố Hữu, là tuyến đường hiện đại, có nhiều chung cư và biệt thự mới xây dựng. Phố Trần Phú song song với tuyến phố Tố Hữu là tuyến đường nối trung tâm Hà Nội sang phía Hà Đông, có Bến xe Yên Nghĩa đầu mối tỏa đi Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Thanh Hóa, Hải Phóng, Kon Tum, Vũng Tàu, đây cũng là khu vực phát triển nhanh với rất nhiều dự án chung cư cao tầng đã và đang mọc lên.

Luật sư Vũ Trọng Khánh (1912 – 1996) sinh ngày 13/3/1912 trong một gia đình buôn bán nhỏ ở làng Cự Đà, huyện Thanh Oai, Hà Đông. Từ năm 1920 đến năm 1932, ông là học sinh của Trường Lycee Albert Sarraut Hà Nội.

 

Phố Vũ Trọng Khánh

 

Sau khi tốt nghiệp Cử nhân Luật, ông về Hải Phòng làm Thư ký Văn phòng Luật Laubies. Năm 1941, ông tuyên thệ trước Tòa Thượng thẩm Hà Nội và trở thành Luật sư. Với trình độ Luật học uyên thâm và sự thông thạo tiếng Pháp, Vũ Trọng Khánh được Luật sư Laubies tin cậy, giao quyền thay mặt mình để tranh tụng trước tòa nhiều vụ án, bào chữa cho nhiều chiến sỹ cách mạng tại Tòa án của chính quyền thực dân Pháp tại Hải Phòng.

Tháng 7/1945, ông nhận chức Đốc lý (Thị trưởng ) thành phố Hải Phòng của Chính phủ Trần Trọng Kim với dụng ý bảo vệ trật tự của thành phố, không để cho kẻ xấu nắm giữ chức vụ này. Đồng thời, ông đã liên hệ với cán bộ Việt Minh để chuyển giao chính quyền Hải Phòng cho Việt Minh ngày 23/8/1945 trong hòa bình. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giao chức vụ Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Tháng 6/1946, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do cụ Huỳnh Thúc Kháng nắm quyền Chủ tịch nước đã ký quyết định cử Luật sư Vũ Trọng Khánh sang tham gia Hội nghị Fontainbleu và làm cố vấn pháp lý cho Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc này đang thăm và làm việc tại Pháp.

Ông cũng là một trong bảy thành viên của Ủy ban Dự thảo Hiến pháp, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Khi Ủy ban thông qua dự thảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: “Đây là một bản dự thảo đặc sắc, ông Vũ Trọng Khánh có công đầu”. Bản dự thảo Hiến pháp này được Quốc hội thảo luận và thông qua ngày 9/11/1946, là một bản Hiến pháp mẫu mực và rất tiến bộ.

Với cương vị Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Luật sư Vũ Trọng Khánh đã soạn thảo trình Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành hơn 30 Sắc lệnh làm nền tảng cho thể chế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hà Nội còn có phố Trần Cung dài 1,6 km, từ đường Phạm Văn Đồng qua Bệnh viện E đến đường Nguyễn Phong Sắc. Đây vốn là đất xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm trước đây.

Trần Cung (1899 – 1995) quê quán tại Vũ Thư, Thái Bình, tham gia hoạt động từ năm 1923. Năm 1946 ông là Xứ ủy viên Bắc Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Sau 1954, ông được phân công về Đảng đoàn, Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sau là Chánh tòa phúc thẩm TANDTC.

Còn nhiều tên tuổi lớn chưa đặt tên phố ở Thủ đô

Trên nhiều đô thị của cả nước, có nhiều đường phố mang tên danh nhân là luật gia, luật sư có cống hiến cho đất nước, nhưng Hà Nội chưa có đường phố mang tên họ.

Ở TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế, Quảng Nam, Tp Nam Định… có đường phố mang tên Phan Anh. Luật sư Phan Anh (1912-1990), quê làng Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh là một trí thức lớn yêu nước. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông theo học ngành Luật tại Trường Đại học Đông Dương. Năm 1937, ông tốt nghiệp Cử nhân Luật. Năm 1938, ông sang Pháp để trình luận án Tiến sĩ Luật, nhưng Thế chiến thứ 2 bùng nổ nên ông không kịp bảo vệ luận án và phải về nước năm 1940, hành nghề luật sư. Năm 1940, ông cùng cộng sự thành lập Báo Thanh Nghị (1941-1945). Ông là một trong 5 cây bút trụ cột, phụ trách nhiều chuyên mục của báo.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông sáng lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Chủ tịch Uỷ ban kiến thiết quốc gia, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong chính phủ Liên hiệp và là Tổng thư ký phái đoàn Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đi dự Hội nghị Fontainbleu.

Ông từng đảm nhiệm những chức vụ quan trọng như: Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Bộ trưởng Thương nghiệp, Bộ trưởng Ngoại thương, Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam. Ông còn là người cùng sáng lập Hội Luật gia Việt Nam, làm chủ tịch Hội và là Thường vụ Hội Luật gia quốc tế; Chủ tịch Hội đồng Hòa bình Thế giới của Việt Nam và Phó Chủ tịch Hội đồng Hòa bình Thế giới. Từ năm 1988, ông làm Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam.

Thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có đường phố mang tên Nguyễn Mạnh Tường. Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) sinh ngày 16 tháng 9 năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà Nội, nhưng quê quán ông lại là làng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội,  là một luật sư, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam.

Ông học tiếng Pháp từ nhỏ, trước học trường Paul Bert, sau học trường Albert Sarraut, Hà Nội. Năm 1926, ông đỗ Tú tài triết học (16 tuổi), hạng ưu, được học bổng sang Pháp học Luật và Văn chương tại Trường đại học Tổng hợp Montpellier (1927). Năm 1929, ông đỗ Cử nhân văn chương, và năm sau đỗ Cử nhân Luật (1930).

Tháng 5 năm 1932, ông bảo vệ luận án Tiến sĩ Luật, với luận án chính: “Cá nhân trong xã hội Việt Nam cổ” và luận án bổ túc “Tổng luận về luật đời Lê”. Tháng 6 năm 1932, ông bảo vệ luận án tiến sĩ văn chương với luận án chính “Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset” và luận án bổ túc “Việt Nam trong các tác phẩm của Jules Boissières”.

Ở tuổi 23 bảo vệ thành công hai Luận án Tiến sĩ Luật khoa và Văn khoa là một thành tựu kiệt xuất. Báo chí Pháp hồi đó ca ngợi : “Luận văn của Ngài quả là một tác phẩm pháp lý, hơn nữa còn là một tác phẩm pháp lý và văn học. Nền tảng của tác phẩm thật là vững vàng và không hề có một lời chỉ trích nào. Cả hình thức cũng thật xán lạn… Công trình nghiên cứu của Ngài thực sự là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh”…

Ông về nước làm Luật sư. Năm 1946, toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ông lên Việt khu Việt Bắc, rồi vào Liên khu III và IV, được cử làm Luật sư tại các Tòa án quân sự, Tòa án đại hình và là thành viên Ban Giám đốc Trường dự bị đại học.

Năm 1951 ông tham gia Đảng Xã hội Việt Nam. Sau Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, ông về lại Hà Nội, tiếp quản trường Đại học Luật và Đại học Sư phạm, rồi được cử làm Giám đốc Đại học Luật, Phó Giám đốc Đại học Sư Phạm, và được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Luật sư Hà Nội. Cũng trong khoảng thời gian này, ông được phong Giáo sư, và tham gia giảng dạy tại các Trường đại học Văn khoa, Sư phạm, Tổng hợp Hà Nội

Sau những biến cố, ông được chuyển sang làm chuyên viên nghiên cứu văn học nước ngoài tại Viện nghiên cứu phương pháp và chương trình giáo dục thuộc Bộ Giáo dục, và là cộng tác viên của nhà xuất bản Giáo dục cho đến khi nghỉ hưu.

TP Nam Định, TP Hồ Chí Minh, TP Long Xuyên (An Giang) có đường Trịnh Đình Thảo.  Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986) người làng Mọc – Chính Kinh, Nhân Mục, nay thuộc phường  quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông  là Tiến sỹ Luật khoa, Cử nhân Văn chương, hành nghề luật sư tại Pháp và Việt Nam.

Khi làm luật sư tại Tòa Thượng thẩm Sài Gòn, ông đã tận tình giúp đỡ và bảo vệ cho những người yêu nước chẳng may bị thực dân Pháp bắt và đưa ra xét xử, trong đó có bà Ngô Thị Phúc, một nhà hoạt động cách mạng và sau trở thành người bạn đời của ông. Lúc bị bắt bà được phân công làm tài chính cho Đảng. Bà là chủ nhân của Xưởng trà Liên Hoa nổi tiếng ở Sài Gòn. Bà chính là người móc nối để luật sư đến với cách mạng.

Nhiều người nhớ ơn ông vì ông là con người trung thực, liêm khiết, yêu thương người bị nạn, đặc biệt là người nghèo khó. Người ta khâm phục ông vì ông dám nói lên tiếng bênh vực lẽ phải, điều mà nhiều trí thức thời đó muốn nhưng không dám làm hoặc không làm được.

Ông từng là Bộ trưởng Bộ Tư pháp của Chính phủ Trần Trọng Kim (1945); nguyên Chủ tịch Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969-1976); Đại biểu Quốc hội khóa VI.

Tp Hồ Chí Minh, Tp Quy Nhơn, Tp Vũng Tàu… có đường phố mang tên Thái Văn Lung. Luật sư Thái Văn Lung (1916 – 1946) người huyện Thủ Đức, Gia Định, sinh ra trong một gia đình trí thức Công giáo. Ông đỗ Cử nhân Khoa Luật tại Đại học Paris (Pháp), đồng thời học thêm ở Trường Khoa học Chính trị và Trường Thuộc địa. Do có quốc tịch Pháp nên Thái Văn Lung tham gia học Trường Sĩ quan Pháo binh, trở thành sĩ quan pháo binh tham gia quân đội trong 4 năm và xuất ngũ với quân hàm trung úy.

Năm 1945, ông trở về nước làm việc tại Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Tháng 6, ông cùng với Nguyễn Văn Thủ, Phạm Ngọc Thạch, Lưu Hữu Phước… tham gia sáng lập lực lượng Thanh niên Tiền phong, trong đó ông phụ trách làm huấn luyện quân sự của tổ chức.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Kỳ. Ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến huyện Thủ Đức, xây dựng tổ chức lực lượng vũ trang của huyện, được nhân dân gọi là bộ đội Thái Văn Lung. Sau tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, ông trở thành một trong những đại biểu Quốc hội khóa I thuộc tỉnh Gia Định. Năm 1946, khi đang tham gia Ban chỉ huy quân sự huyện và chỉ huy lực lượng bộ đội Thái Văn Lung chống Pháp, ông đã bị bắt trong một trận đánh. Sau khi bị tra tấn khốc liệt, ông mất vào ngày 2 tháng 7 năm 1946, khi chưa tròn 30 tuổi. Ông là anh trai của nghệ sĩ piano Thái Thị Liên, là bác của Nghệ sĩ Piano nổi tiếng Đặng Thái Sơn.

Nhiều đô thị lớn có đường phố mang tên Trần Công Tường. Luật sư Trần Công Tường (1915 – 1990) người làng Vĩnh Thạnh, tỉnh Gò Công  (Tiền Giang). Thuở nhỏ, đi học trường Pháp, ông chọn những môn khó nhất như: Lịch sử cổ điển châu Âu bằng tiếng cổ Hy Lạp, cổ La tinh và luôn được xếp đầu bảng. Ông đỗ tú tài Pháp rất dễ dàng. Học trường Tây mà giỏi hơn Tây, ông đã thực hiện được lời cha dạy, không để Tây coi thường người Việt.

Năm 1936, ông ra Hà Nội học trường Luật, chung một lớp với Võ Nguyên Giáp. Thấy Trần Công Tường là người Nam bộ, thông minh, yêu nước, có tư tưởng tiến bộ, dần dần Võ Nguyên Giáp kết thân và vận động Trần Công Tường tham gia vào các hoạt động của Đảng. Những năm 1937-1940, Trần Công Tường học đại học văn học và chính trị tại Paris. Trong những năm 1940-1945, luật sư Trần Công Tường đã tích cực bênh vực quyền lợi của các chiến sĩ cách mạng và quần chúng yêu nước tại các Tòa án ở Sài Gòn, Mỹ Tho, Bến Tre, Đà Lạt, Vĩnh Long, Đà Nẵng… Trong Cách mạng Tháng 8-1945, luật sư Trần Công Tường đã tiếp thu các cơ sở tư pháp tại Sài Gòn, được cách mạng cử làm Giám đốc Tư pháp Nam bộ và Tổng Chưởng lý Nam bộ.

Tháng 11-1946, ông được cử làm Thứ trưởng Bộ Tư pháp Việt Nam, tham gia các đoàn đàm phán với phái đoàn Pháp tại Việt Nam. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, luật sư Trần Công Tường được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ giao nhiều trọng trách trong các hội nghị quốc tế, ông luôn là một trợ lý đắc lực về tư pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông là thành viên đoàn Việt Nam tham dự hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, phụ trách phần chính trị, soạn dự thảo Tuyên bố chung của hội nghị.

Từ tháng 5 năm 1958 đến tháng 5 năm 1959 ông giữ chức vụ Phó Chánh án rồi Quyền Chánh án TANDTC. Từ năm 1972 khi Chính phủ thành lập Ủy ban Pháp chế, luật sư Trần Công Tường làm Chủ nhiệm Ủy ban này cho đến năm 1978.

Giới luật gia cả nước mong rằng Hà Nội sẽ sớm có những đường phố mới, mang tên Trần Công Tường, Trịnh Đình Thảo, Thái Văn Lung, Phan Anh, Nguyễn Mạnh Tường… mà cống hiến cũng như tên tuổi của họ đã được khẳng định; cũng như những luật gia, luật sư có nhiều cống hiến, mới qua đời như Vũ Đình Hòe (1912-2011), Phùng Văn Tửu (1923-1997), Lê Giản (1913-2003), Phạm Hưng (1927-2018), Trịnh Hồng Dương (1938-2008)…

Theo Phaply.vn

THÁI ĐĂNG