Hoàn thiện chế định pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân thương mại ở Việt Nam

Bài viết phân tích các khía cạnh pháp lý của trách nhiệm dân sự của pháp nhân thương mại trên cơ sở tham khảo pháp luật một số nước và quy định hiện hành trong pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế định này ở Việt Nam.

Trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật, ngoài thể nhân – con người tự nhiên, còn có các thực thể pháp lý khác có tư cách chủ thể là pháp nhân. Hiện nay, các quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân được quy định tương đối đầy đủ, cụ thể đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện pháp luật. Tuy vậy, việc hoàn thiện pháp luật quy định về trách nhiệm dân sự của pháp nhân luôn được đặt ra nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực hiện pháp luật. 

1.Pháp nhân thương mại và trách nhiệm dân sự của pháp nhân thương mại 

1.1.Khái quát về pháp nhân thương mại

Trong khoa học pháp lý, khi nghiên cứu về pháp nhân có rất nhiều các quan điểm khác nhau (thậm chí là trái ngược nhau) của nhà luật học về sự hình thành và ghi nhận của pháp luật đối với pháp nhân. Các quan điểm đó trở thành các học thuyết pháp lý đã làm cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề lý luận về nguồn gốc hình thành và bản chất của pháp nhân. Mỗi quốc gia khi xây dựng các quy định về pháp nhân “đều dựa trên nền tảng một học thuyết nào đó[1].

Ở Việt Nam, dựa trên quy định của pháp luật hiện hành, có thể đưa ra khái niệm như sau: Pháp nhân là tổ chức được thành lập hợp pháp, có cơ cấu thống nhất, có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.

Pháp nhân ra đời đáp ứng điều kiện của đời sống xã hội và hoạt động lập pháp. “Sự xuất hiện của pháp nhân là sự tuân theo xu hướng nhân hóa những đoàn thể cá nhân hay các tập hợp tài sản này với những người thường và công nhận cho các thực thể ấy một nhân cách pháp lý gọi là pháp nhân[2]. Ý nghĩa của sự ra đời pháp nhân là để bảo vệ tốt lợi ích chung của nhóm với những người có quan hệ, cùng mục đích liên kết với nhau, cũng như lợi ích của người thứ ba có quan hệ với nhóm, cần công nhận sự tồn tại độc lập của nhóm so với cá nhân. Theo đó, “luật đáp ứng yêu cầu cần bảo vệ của nhóm bằng cách thừa nhận cho nhóm có tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật. Nhóm được coi như có nhân thân của riêng mình, phân biệt với nhân thân của từng thành viên. Được nhân cách hóa, nhóm có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nghĩa là có năng lực hành vi, và có tài sản riêng bảo đảm cho việc thực  hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Một con người trìu tượng, nhóm thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua những con người cụ thể được bố trí vào các cơ quan của nhóm, gọi là cơ quan quản trị, điều hành và kiểm soát hoạt động của nhóm. Luật gọi những nhóm như thế là những pháp nhân[3].

Pháp nhân của bất cứ hệ thống pháp luật nào cũng phải thoả mãn các điều kiện chung nhất bao gồm: i). Tiền đề về tổ chức để biến một tập thể người thành một chủ thể độc lập và hợp pháp để tham gia vào các quan hệ pháp luật; ii). Tiền đề vật chất để tham gia vào các quan hệ tài sản và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Tổng hợp các tiền đề tổ chức và vật chất để một tổ chức có tư cách chủ thể tham gia vào các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ của pháp nhân quy định. “Mục đích của việc xác lập tư cách pháp nhân là việc tách biệt tài sản. Như vậy, chỉ có những tổ chức thực hiện nguyên tắc tách bạch về mặt tài sản mới có được điều kiện quan trọng đầu tiên để trở thành pháp nhân[4]. Vì thế có ý kiến cho rằng, “trên thực tế, thuật ngữ này cũng dễ hiểu: ai nói đến tư cách pháp nhân là nói đến tài sản riêng biệt[5]. “Khi thực hiện nguyên tắc tách bạch về tài sản cũng là khi xuất hiện một tính pháp lý mới, tách bạch với tính pháp lý của chủ sở hữu hoặc cộng đồng sở hữu[6]. Sự tách bạch về tài sản đặt ra, nhằm xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân về hậu quả pháp lý khi tham gia quan hệ tài sản và trách nhiệm đó gọi là trách nhiệm hữu hạn. Còn những tổ chức không thực hiện nguyên tắc tách bạch tài sản đều hưởng trách nhiệm vô hạn trong quan hệ tài sản đối với bên kia của quan hệ pháp luật.

Theo quy định của pháp luật hiện hành chia thành: Pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Nếu như mục tiêu chính của các pháp nhân thương mại là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận đó được chia cho các thành viên, thì ngược lại, pháp nhân phi thương mại không đặt ra mục tiêu này, và nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên. Theo đó, “pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác[7]. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.

Trong hoạt động kinh doanh, hầu hết các công ty đều được pháp luật của các quốc gia quy định có tư cách pháp nhân (nếu doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân thì tham gia quan hệ pháp luật với tư cách thể nhân) là chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật. Các pháp nhân thương mại là các loại hình công ty tham gia tích cực vào trong các hoạt động kinh tế, hoạt động quản lý của nhà nước trên cơ sở nhà nước tôn trọng quyền tự do ý chí, tự do kinh doanh của công dân. Khi hình thành, “các của cải do các thành viên đóng góp hợp thành một khối tài sản tách biệt khỏi khối tài sản của các thành viên, và bằng một hư cấu pháp lý khối tài sản này tạo nên một pháp nhân[8].

Như vậy, pháp nhân là một khái niệm để chỉ một loại chủ thể pháp luật độc lập, dùng để phân biệt với chủ thể là con người. Pháp nhân được tạo lập bởi ý chí của một hoặc nhiều con người cụ thể. Tư cách chủ thể trong các quan hệ pháp luật được gọi là tư cách pháp nhân.

​​​​​​​2.Trách nhiệm dân sự của pháp nhân thương mại

Có thể nhận thấy rằng, pháp nhân là một sự vật, hiện tượng được con người nhân cách hóa để hưởng các quyền và gánh vác nghĩa vụ khi tham gia quan hệ pháp luật. Pháp nhân được mô phỏng đời sống pháp lý giống như một thể nhân. Các thành viên thực hiện việc góp vốn vào pháp nhân và pháp nhân sẽ là chủ sở hữu tài sản góp vốn đó. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, các pháp nhân là chủ thể độc lập, tách biệt với các chủ sở hữu.

Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý, theo đó chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phải có nghĩa vụ bồi thường cho bên bị tổn hại do hành vi của mình gây ra. “Trách nhiệm dân sự là một nguồn gốc của nghĩa vụ không căn cứ vào ý chí của đương sự, tức là nguồn gốc bất hợp pháp; vì vậy trách nhiệm dân sự làm phát sinh ra nghĩa vụ bồi thường đối với người đã làm một hành vi trái luật gây tổn thiệt cho một người khác[9]. Vậy cho nên, “khi một người nào, gây một sự thiệt hại cho người khác do lỗi của mình, dù chỉ là sơ ý hay một sự bất cẩn không cố ý, cũng phải bồi thường cho người chịu thiệt hại. Đây là vấn đề trách nhiệm dân sự[10].

Trách nhiệm dân sự của pháp nhân được hiểu là trách nhiệm về tài sản của pháp nhân, phát sinh từ quan hệ hợp đồng mà pháp nhân tham gia hoặc trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm này bao hàm hai nội dung: Một là, tài sản chịu trách nhiệm là tài sản độc lập của pháp nhân. Đó là tài sản thuộc quyền sở hữu của pháp nhân. Tài sản của pháp nhân bao gồm vốn góp của chủ sở hữu, sáng lập viên, thành viên của pháp nhân và tài sản khác mà pháp nhân được xác lập quyền sở hữu. Tài sản của pháp nhân và tài sản của các thành viên hoàn toàn tách bạch. Pháp nhân với tư cách là chủ sở hữu các tài sản mà các sáng lập viên góp vào, vì thế nó là chủ thể của các quan hệ pháp luật – có tư cách pháp nhân. Hai là, pháp nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, đối với các nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ pháp luật, nhưng cũng chỉ bằng toàn bộ tài sản của mình mà thôi. Theo đó pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho thành viên đối với nghĩa vụ dân sự do thành viên xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, còn thành viên thì không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do đại diện của pháp nhân xác lập, thực hiện vì lợi ích của pháp nhân.

Tuy vậy, yếu tố về trách nhiệm hữu hạn của thành viên pháp nhân trong những trường hợp đặc biệt không còn phải là đặc trưng cho pháp nhân. Các thành viên hợp danh trong loại hình công ty hợp danh, phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty bằng tài sản riêng của mình. Khi đó, dù tài sản được tách biệt, nhưng trách nhiệm của thành viên pháp nhân, nếu pháp nhân không trả hết nghĩa vụ bằng tài sản của mình, thì thành viên có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thay cho pháp nhân.

2.Kinh nghiệm pháp luật một số nước về trách nhiệm dân sự của pháp nhân thương mại

Thứ nhất, về tư cách chủ thể của pháp nhân

Pháp luật Thái Lan quy định, khi tham gia các quan hệ pháp luật, thì “một pháp nhân được hưởng những quyền và có những nghĩa vụ tương tự như thể nhân, trừ những quyền và nghĩa vụ, vì tính chất của chúng, chỉ có thể dành cho hoặc mắc chịu bởi một thể nhân” (điều 70, Các quyển I-VI)[11]. Một pháp nhân có những quyền và nghĩa vụ theo đúng những quy định của pháp luật trong phạm vi mục đích hoạt động của pháp nhân đó.

Tương tự, Bộ luật Dân sự (BLDS) Nhật Bản quy định “pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ căn cứ các quy định của luật và pháp lệnh và căn cứ vào mục tiêu, phạm vi hoạt động như đã quy định trong các điều khoản thành lập[12]. Việc thành lập pháp nhân không thể được sử dụng chống người khác nếu như chưa được đăng ký ở nơi đặt trụ sở chính.

Thứ hai, về trách nhiệm dân sự pháp nhân do người quản lý, đại diện gây ra

Pháp luật Thái Lan quy định pháp nhân hoạt động không nhất thiết chỉ thông qua một người đại diện, mà có thể nhiều người quản lý trong pháp nhân đều có thẩm quyền đại diện cho pháp nhân tham gia các giao dịch nhân danh pháp nhân đó. “Ý chí của một pháp nhân được bày tỏ thông qua những người đại diện của pháp nhân đó[13]. Theo quy định này, một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện, mỗi người đại diện phụ trách những hoạt động nhất định của pháp nhân, và có quyền nhân danh pháp nhân trong hoạt động của mình.

Pháp nhân buộc phải bồi thường về bất cứ thiệt hại nào, do người quản lý hoặc những người đại diện khác của pháp nhân gây ra cho những người khác trong khi thi hành nhiệm vụ của mình, đồng thời dành quyền khiếu nại những người gây ra thiệt hại đó. Nếu pháp nhân chối bỏ trách nhiệm, thì pháp luật Thái Lan cũng dự liệu rằng: “Bất cứ sự hạn chế hoặc sửa đổi nào về quyền hạn đại diện của những người quản lý, không được thiết lập nhằm chống lại những người thứ ba có thiện chí”[14]. Vì thế, nếu quyền lợi của pháp nhân xung đột với quyền lợi của người quản lý, người quản lý không có quyền đại diện. Trong trường hợp này, một người đại diện đặc biệt phải được chỉ định.

Theo BLDS Nhật Bản, đại diện cho pháp nhân nghĩa là thực hiện hành vi được công nhận là hành vi của pháp nhân. Phạm vi đại diện bao trùm tất cả các liên quan đến mục đích của pháp nhân. “Không có sự hạn chế nào trong quyền đại diện của bất kỳ giám đốc nào có thể được sử dụng  chống lại người thứ ba ngay tình”[15]. Các giám đốc không có quyền đại diện trong các vấn đề mà quyền lợi của pháp nhân và của bản thân họ xung đột với nhau, và cũng giống pháp luật Thái Lan, một đại diện đặc biệt sẽ được chỉ định để nhân danh pháp nhân trong vấn đề đó.

BLDS Nhật Bản quy định “khi người đại diện thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng ngoài phạm vi nghĩa vụ đại diện thì người chịu trách nhiệm không phải là pháp nhân mà là người đại diện, theo quy định chung về bồi thường thiệt hại[16]. Trong trường hợp, việc người đại diện trực tiếp hoặc gián tiếp lợi dụng uy tín của pháp nhân hoặc khi người bị thiệt hại là số đông công dân thì BLDS Nhật Bản quy định cả pháp nhân và giám đốc đều liên đới chịu trách nhiệm dân sự.

Thứ ba, trách nhiệm dân sự do người của pháp nhân gây ra

Việc xác định phạm vi mục đích hoạt động của pháp nhân rất quan trọng trong pháp luật các nước, bởi nếu thiệt hại gây ra cho những người khác là do một hành vi không nằm trong phạm vi mục đích hoạt động của pháp nhân, thì những thành viên hoặc những người quản lý tán thành hành vi đó, những người quản lý và những người đại diện khác thực thi hành vi đó phải liên đới chịu bồi thường. Và nếu có “sự hạn chế quyền hạn của một thành viên trong một hội kinh doanh không có đăng ký để ràng buộc các hội viên khác, thì không thể có hiệu lực đối với những người thứ ba[17].

3.Chế định trách nhiệm dân sự của pháp nhân thương mại trong BLDS 2015

Theo quy định tại Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 thì trách nhiệm dân sự của pháp nhân được đặt ra trong các trường hợp như sau:

Một là, pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.

Về nguyên tắc, pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự về những hành vi được coi là hành vi của pháp nhân, còn những hành vi thực hiện với tư cách cá nhân không làm phát sinh trách nhiệm dân sự ở pháp nhân. Do vậy, cần phải phân biệt hành vi của cá nhân với hành vi của pháp nhân để xác định trách nhiệm pháp lý phát sinh từ hành vi đó. Trong trường hợp người đại diện không có thẩm quyền đại diện hoặc vượt quá thẩm quyền đại diện cho pháp nhân, thì sẽ phát sinh có vấn đề pháp lý như:

Người không có quyền đại diện cho pháp nhân xác lập, thực hiện: Sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với pháp nhân thì người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch.

Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trừ một trong các trường hợp sau đây: a) Pháp nhân đã công nhận giao dịch; b) Người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch; c) Pháp nhân biết không phản đối trong một thời hạn hợp lý; d) Pháp nhân có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện. Nếu người không có quyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho pháp nhân thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.

Người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện cho pháp nhân: Sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.

Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trừ một trong các trường hợp sau đây: a) Pháp nhân đồng ý; b) Người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch; c) Pháp nhân biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; d) Pháp nhân có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện. Nếu người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho pháp nhân thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.

Trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi: Thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với pháp nhân, trừ trường hợp pháp nhân biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối.

Hai là, pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân. Trường hợp pháp nhân được thành lập, thì pháp nhân đó phải tiếp tục thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mà người thành lập đã ký kết. Trường hợp pháp nhân không được đăng ký thành lập thì người ký kết hợp đồng sẽ chịu trách nhiệm hoặc người thành lập liên đới chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng đó.

Ba là, trách nhiệm dân sự của pháp nhân phát sinh do người của pháp nhân gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao

Người của pháp nhân được hiểu là bất cứ thành viên nào của pháp nhân, được pháp nhân tuyển dụng vào làm việc theo các quan hệ hợp đồng dài hạn, ngắn hạn, đang trong thời gian thử việc… Pháp nhân phải bồi thường cho người bị thiệt hại liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ mà pháp nhân giao cho thành viên đó thực hiện. Trong trường hợp này, hành vi của họ được hiểu là hành vi của pháp nhân. Chính vì vậy trách nhiệm dân sự trước hết thuộc về pháp nhân. Sau khi pháp nhân thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại, nếu thành viên của pháp nhân có lỗi khi gây thiệt hại cho chủ thể khác thì pháp nhân có quyền yêu cầu thành viên này phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật. Do đó, việc xác định mức độ lỗi của thành viên khi gây thiệt hại là rất quan trọng và là cơ sở để xác định số tiền hoàn trả của thành viên đối với pháp nhân.

Có thể trách nhiệm cuối cùng sẽ thuộc về người của pháp nhân có lỗi, nhưng nếu buộc người của pháp nhân bồi thường trực tiếp cho người bị thiệt hại sẽ không đảm bảo nguyên tắc bồi thường kịp thời, bởi vì người của pháp nhân gậy thiệt hại sẽ khó có khả năng bồi thường cho người bị thiệt hại ngay khi thiệt hại xảy ra. Hơn nữa, người của pháp nhân đang thực hiện nhiệm vụ pháp nhân giao để mang lại cho pháp nhân những lợi ích nhất định và hành vi gây thiệt hại liên quan đến hoạt động của pháp nhân nên buộc pháp nhân bồi thường là hoàn toàn phù hợp.

4.Một số kiến nghị hoàn thiện chế định pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân thương mại

Các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm dân sự của pháp nhân đã rõ ràng, cụ thể và tạo cơ sở để phân biệt trách nhiệm dân sự của pháp nhân và trách nhiệm dân sự của  người quản lý, đại diện. Tuy vậy, khi xem xét pháp luật của một số nước về vấn đề này, thì thấy rằng việc bổ sung thêm một số vấn đề pháp lý cơ bản sẽ góp phần giúp chế định trách nhiệm dân sự của pháp nhân hoàn thiện hơn và thực thi một cách có hiệu quả hơn. Một số vấn đề pháp lý cần được xem xét, bổ sung như:

Thứ nhất, cần xem xét, bổ sung quy định về “mục tiêu, phạm vi hoạt động của pháp nhân” làm căn cứ để xác định hành vi của người quản lý, người đại diện có phù hợp với mục tiêu, phạm vi hoạt động như đã quy định trong điều lệ hoặc trong quy định của pháp luật. BLDS 2015 đã có sự phân loại pháp nhân căn cứ vào mục đích thành lập, hoạt động của pháp nhân để chia thành pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Tuy vậy, cần gắn căn cứ này để xác định trách nhiệm dân sự của pháp nhân hoặc của người quản lý, người đại diện.

Thứ hai, pháp luật cần đưa ra các trường hợp phân định “rõ ràng trách nhiệm pháp nhân và trách nhiệm của cá nhân người đại diện”, cũng như các trường hợp “trách nhiệm liên đới giữa pháp nhân và người đại diện” tạo điều kiện thuận lợi và cơ sở pháp lý cho việc áp dụng trong thực tiễn thi hành và để tránh trường hợp pháp nhân thoái thác trách nhiệm do người của mình gây ra.

Thứ ba, dựa vào việc quy định các trường hợp liên đới trách nhiệm pháp lý, thì BLDS hiện hành cần quy định thêm trường hợp nếu: Người đại diện trực tiếp hoặc gián tiếp lợi dụng uy tín của pháp nhân hoặc khi người bị thiệt hại là số đông công dân thì pháp nhân và giám đốc đều liên đới chịu trách nhiệm. Hành vi này xảy ra khá phổ biến trong thực tiễn hoạt động của pháp nhân thương mại. Vì thế, pháp luật dự liệu trường hợp này nhằm ngăn chặn việc người đại diện lợi dụng pháp nhân để đạt mục đích trục lợi riêng cho mình, nhưng khi những người bị hại khởi kiện người đại diện ra tòa để yêu cầu bồi thường thiệt hại thì người đại diện không thể thực hiện trách nhiệm bồi thường, trong khi pháp nhân luôn có ý định thoái thác trách nhiệm của mình. Vì vậy, việc gắn trách nhiệm liên đới giữa pháp nhân và người đại diện trong trường hợp trên góp phần nhằm đảm bảo tính khả thi của trách nhiệm bồi thường thiệt hại./.

 

Tp Cửa Lò, Nghệ An - Ảnh: Thái Vũ


 

 

1. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình Luật Thương mại: phần chung và thương nhân, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr, 76

2. Vũ Văn Mẫu (1957), Dân luật khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, tr. 367

3. Nguyễn Ngọc Điện (2010), Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, tr, 221-222

4. Khoa Luật-ĐHQGHN (2001), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, Nbx Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 46

5. Nguyễn Văn Bình và Lê Thị Tý (1989) (dịch), Tổ chức công ty - Tập 1, Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, tr. 79

6. Khoa Luật-ĐHQGHN (2001), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, Nbx Đại học quốc gia Hà Nội, tr.45

7. Khoản 1, 2 Điều 75 Bộ luật Dân sự 2015

8. Francis Lemeunier (1993), Nguyên lý và thực hành luật thương mại, luật kinh doanh, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 168

9. Vũ Văn Mẫu (1963), Việt Nam dân luật lược khảo – Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 431

10. Vũ Văn Mẫu, Lê Đình Chân (1968), Danh từ & Tài liệu: Dân Luật và Hiến luật, Tủ sách Đại học, Sài gòn, tr. 168

11. Bộ luât Dân sự và thương mại Thái Lan (1925), Các quyển I - VI theo bản dịch năm 1995 của Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

12. Điều 43, Bộ luật Dân sự Nhật Bản (lần sửa đổi 2006)

13. Điều 75, Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan (1925)

14. Điều 78, Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan (1925)

15. Điều 54 Bộ luật Dân sự Nhật Bản (lần sửa đổi 2006)

16. Xaca Vacaxum, Tori Aritdumi, Bình luận khoa học Bộ luật Nhật Bản, Theo bản dịch của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Nhà xuất Chính trị Quốc gia, năm 1995, trang 90

17. Điều 1053, Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan (1925)

TS. NGUYỄN VĂN LÂM (Viện Kinh tế và Quản lý, trường Đại học Bách khoa Hà Nội)