Một số điểm chưa hợp lý trong quy định và áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, có những quy định về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) theo hướng phù hợp hơn so với BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số điểm chưa thật phù hợp, dẫn đến quá trình áp dụng chưa thật sự đảm bảo nguyên tắc nhân đạo của Đảng và Nhà nước, cũng như tính công bằng khi xét xử đối với người phạm tội.

1.Những quy định chưa phù hợp về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS

a) Tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại Điều 51 BLHS

Điều 51 BLHS quy định 22 tình tiết (nhóm tình tiết) giảm nhẹ TNHS tại khoản 1; một tình tiết cụ thể là “Đầu thú” và không giới hạn các tình tiết khác quy định tại khoản 2. Tại khoản 1 quy định có trường hợp là các tình tiết đơn lẻ, đó là: Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; phạm tội do lạc hậu; người phạm tội là phụ nữ có thai; người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; người phạm tội tự thú; người phạm tội đã lập công chuộc tội (các điểm c, d, đ, e, g, i, l, m, n, o, r, u).

Trong khi đó, có trường hợp được quy định là nhóm các tình tiết, cụ thể: Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; phạm tội vì bị người khác đe doạ hoặc cưỡng bức; người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải; người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm; người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng (các điểm a, b, h, k, p, q, s, t, v, x).

Với trường hợp quy định là nhóm các tình tiết khi người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trong nhóm đó, nhưng chỉ được xem là một tình tiết giảm nhẹ để áp dụng dẫn đến chưa thật sự có lợi cho người phạm tội; ví dụ, người phạm tội là người có công với cách mạng và cũng là cha của liệt sỹ, nhưng theo quy định chỉ áp dụng tình tiết quy định tại điểm x khoản 1; hoặc người phạm tội vừa có thành tích xuất sắc trong chiến đấu, vừa có thành tích xuất sắc trong công tác, nhưng chỉ áp dụng điểm v khoản 1 của Điều 51 BLHS; Trong khi đó, đối với người phạm tội chỉ thỏa mãn một tình tiết trong nhóm các tình tiết này thì cũng được áp dụng như đối với những người có nhiều tình tiết trong nhóm. Tuy khi có nhiều tình tiết như vậy thì có thể xem xét để giảm nhẹ TNHS ở mức cao hơn cho người phạm tội, nhưng trong một số trường hợp khác thì dẫn đến không có lợi, như trong trường hợp xem xét cho hưởng án treo hoặc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt…

Tại khoản 2 Điều 51 BLHS, chỉ quy định cụ thể một tình tiết là “Đầu thú”, còn lại việc áp dụng tùy thuộc vào sự đánh giá của Hội đồng xét xử. Việc trao quyền chủ quan cho Hội đồng xét xử xem xét xác định và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trong trường họp này cũng dễ dẫn đến việc áp dụng không thống nhất, từ đó dẫn đến quyết định của Tòa án không nghiêm. Cụ thể, có Hội đồng xét xử xem tình tiết này là tình tiết theo khoản 2 để áp dụng, nhưng Hội đồng xét xử khác lại không áp dụng; hoặc có trường hợp lạm dụng việc xem xét để áp dụng; cũng có trường hợp Hội đồng xét xử bảo thủ không dám áp dụng… Ngoài ra, trong thực tế, có nhiều trường hợp người phạm tội có rất nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS theo khoản 2 Điều 51 BLHS, nhưng khi áp dụng, trong phần quyết định cũng chỉ xác định là áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS; trong khi đó, người chỉ có một tình tiết cũng áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS (tuy đối với người có nhiều tình tiết ở khoản 2 thì xem xét giảm nhẹ nhiều hơn, nhưng trong thực tế vẫn chưa thật phù hợp). Tất cả các trường hợp vừa nêu đều dẫn đến quyết định trong bản án của Tòa án không đảm bảo tính thuyết phục và tính công bằng trong lượng hình đối với người phạm tội.

b) Về các tình tiết tặng nặng TNHS quy định tại Điều 52 BLHS

Trong khoản 1 của Điều luật quy định có tất cả 15 tình tiết (nhóm tình tiết) được xem là tình tiết tăng nặng TNHS, khi xét xử Tòa án chỉ được áp dụng các tình tiết này để xem xét tăng nặng TNHS cho bị cáo. Trong các tình tiết tăng nặng, có 07 tình tiết đơn, đó là: Phạm tội có tổ chức, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, phạm tội có tính chất côn đồ, phạm tội vì động cơ đê hèn, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, phạm tội 02 lần trở lên và  xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội (quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, o). Bên cạnh đó có 08 tình tiết kép, gồm: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên; phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác; lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác để phạm tội; dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội; có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm (quy định tại các điểm c, h, i, k, l, m, n, p).

Dù là tình tiết đơn hay tình tiết kép, khi xét xử Tòa án chỉ xem là một tình tiết tăng nặng TNHS để lượng hình theo hướng tăng nặng cho bị cáo. Do vậy, trong thực tế xét xử và áp dụng sẽ dẫn đến bất cập liên quan đến tính không nghiêm khắc của sự việc, bên cạnh đó thậm chí dẫn đến tính không công bằng đối với các bị cáo. Cụ thể như, đối với điểm i, nếu người phạm tội vừa vi phạm tình tiết đối với phụ nữ có thai và vừa vi phạm tình tiết là người dưới 16 tuổi; hoặc quy định tại điểm k, nếu người phạm tội vừa phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự tệ được, vừa phạm tội đối với người bị lệ thuộc mình; hoặc quy định tại điểm m, nếu người phạm tội vừa dùng thủ đoạn tinh vi, vừa thể hiện sự tàn ác… khi xét xử chỉ áp dụng điểm i, điểm k hoặc điểm m để tăng nặng TNHS. Trong khi đó, đối với người phạm tội khác, chỉ phạm vào một tình tiết trong nhóm đó (chỉ đối với phụ nữ có thai, hoặc chỉ dùng thủ đoạn tinh vi, hoặc chỉ đối với người lệ thuộc mình…), khi xét xử cũng chỉ áp dụng một tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm i, điểm k hoặc điểm m. Như vậy, các quy định này có thể dẫn đến việc đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội trong vụ án có thể dẫn đến không tương xứng và mức án tuyên đối với bị cáo sẽ không đảm bảo nghiêm khắc.

2.Đề xuất hướng hoàn thiện

– Thứ nhất, các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng TNHS cần nghiên cứu quy định lại, theo hướng tách những quy định nhóm hành vi thể hiện bản chất độc lập thành các tình tiết khác nhau. Ví dụ như, tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS, có thể tách ra thành 02 tình tiết là “Người phạm tội là người có công với cách mạng” và “Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng hoặc con của liệt sỹ”; hoặc tình tiết quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 BLHS, có thể tách thành 03 tình tiết “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi”, “Phạm tội đối với phụ nữ có thai” và “Phạm tội đối với người đủ 70 tuổi trở lên”… Việc tách này sẽ góp phần đảm bảo khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ sẽ mang tính có lợi hơn cho người phạm tội; trong khi đó, đối với tình tiết tăng nặng sẽ đảm bảo tính công bằng hơn tương xứng đối với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi.

– Thứ hai, để khắc phục tình trạng một người có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS nhưng cũng chỉ xem là tình tiết tại khoản 2, cần quy định một tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 là “Khi có từ ba tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 của Điều luật này”.

– Thứ ba, nhằm đảm bảo thực hiện khoản 2 Điều 51 BLHS, tránh tình trạng lạm dụng hoặc bảo thủ không dám áp dụng, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên tổng hợp trong thực tiễn để liệt kê các tình tiết đã được áp dụng và phù hợp, bên cạnh đó dự liệu một số tình tiết khác có thể được áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS, hướng dẫn cụ thể cho các Tòa án áp dụng thống nhất[1].

Tóm lại, BLHS quy định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS để áp dụng khi lượng hình đối với người phạm tội là nhằm đảm bảo khi quyết định hình phạt cần xem xét tổng thể các yếu tố khách quan và chủ quan, từ đó có mức án tương xứng với người phạm tội. Do đó, việc quy định cụ thể, phù hợp thì quá trình áp dụng sẽ thuận lợi và chính xác; khi đó các quyết định của bản án mới khách quan, toàn diện,mang tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cao./.

TAND tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”- Ảnh: Đào Thị Hồng Hà

[1] Ngoài các tình tiết được quy định tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP

NGUYỄN VĂN LAM (Tòa án quân sự Quân khu 9)