Tạm ngừng phiên tòa - Lý luận và thực tiễn

Ngừng phiên tòa là chế định mới được bổ sung trong BLTTHS 2015, thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo hơn của nhà nước ta trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng quy định này đã bộc lộ một số bất cập, cần được xem xét khắc phục.

1. Căn cứ tạm ngừng phiên tòa

Theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLTTHS[i] thì tạm ngừng phiên tòa được thực hiện khi thỏa mãn các căn cứ sau:

Thứ nhất, cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa và có thể thực hiện được trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa.

Việc thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu của Tòa án đã được quy định tại Điều 252, 253 và 284, 305 của BLTTHS. Điều 252 BLTTHS quy định các hình thức Tòa án có thể thực hiện để thu thập chứng cứ; Điều 253 BLTTHS quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận chứng cứ và xử lý chứng cứ khi cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; Điều 284 quy định trường hợp khác đó là Tòa án có thể yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu chứng cứ hoặc Tòa án trực tiếp đi thu thập chứng cứ trước khi khai mạc phiên tòa; Điều 305 BLTTHS quy định về việc giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ tại phiên tòa.

Các trường hợp nêu trên Tòa án yêu cầu cơ quan, người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng hoặc Tòa án trực tiếp tiến hành thu thập, bổ sung, tiếp nhận chứng cứ mà không phải trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát; Chủ thể yêu cầu hoặc tiếp nhận chứng cứ tài liệu ở đây là thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử hoặc Thư ký tiếp nhận chứng cứ, tài liệu khi tiến hành tố tụng.

Tuy nhiên, trường hợp thu thập bổ sung chứng cứ quy định tại Điều 284, Tòa án chỉ có thể thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và trường hợp quy định tại Điều 305 Tòa án chỉ thu thập, tiếp nhận chứng cứ, tài liệu tại phiên tòa; riêng đối với các trường hợp thu thập, bổ sung chứng cứ quy định tại Điều 252 và 253, Tòa án có thể thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến quá trình tố tụng tại phiên tòa.

Thực tế cho thấy, quá trình tiếp nhận, thu thập, bổ sung và xử lý chứng cứ tài liệu nếu phát sinh căn cứ quy định tại Điều 280 hoặc khoản 3 Điều 298 của BLTTHS thì Tòa án phải trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Ví dụ: Chi phí chữa trị của bị hại phát sinh thêm mà chưa tính trong viện phí...; chứng cứ do người tham gia tố tụng cung cấp hoặc người tham gia tố tụng đề nghị ngừng để họ cung cấp, bổ sung chứng cứ (vì có thể 05 ngày tới họ mới có kết quả trả lời của cơ quan khác)…

 Thứ hai, do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa.

Với quy định nêu trên ta thấy, khi đang tiến hành phiên tòa, Tòa án phải ngừng phiên tòa khi phát sinh một trong các căn cứ nêu trên; có nghĩa là khi bắt đầu phiên tòa thì các thành phần tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng có mặt đầy đủ theo quy định, nhưng trong quá trình tiến hành phiên tòa thì có người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (người tiến hành tố tụng ở đây ngoài Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án thì còn có thể là Điều tra viên tiến hành điều tra vụ án; Kiểm sát viên kiểm sát điều tra vụ án được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa) hoặc người tham gia tố tụng do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà không thể tiếp tục tham gia phiên tòa. Vì vậy, việc tạm ngừng phiên tòa phải xuất phát từ lý do đột xuất và chưa có dự liệu; và yêu cầu đặt ra là những lý do này cũng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn (5 ngày) và sau đó họ tiếp tục tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng được. Tuy nhiên thực tiễn xét xử, còn có trường hợp Tòa án phải ngừng phiên tòa khi người tham gia tố tụng xin được ngừng phiên tòa để họ hoặc những người đại diện của họ tiến hành thỏa thuận giải quyết về dân sự… Ví dụ: Khi đang tham gia tố tụng tại phiên tòa thì người thân thích của họ mất (trừ bị cáo) hoặc bị cáo bị tụt huyết áp, bất tỉnh...

- Thứ ba, vắng mặt Thư ký Tòa án tại phiên tòa.

Thư ký Tòa án là người tiến hành tố tụng theo quy định của BLTTHS có nhiệm vụ quan trọng là giúp việc cho HĐXX và ghi biên bản phiên tòa. Thư ký Tòa án là thành phần quan trọng không thể thiếu tại phiên tòa; do đó, nếu Thư ký phiên tòa bị thay đổi mà không có Thư ký dự khuyết thì phải hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 297.

Tuy nhiên, trường hợp vắng mặt Thư ký tại phiên tòa nhưng có thể khắc phục được trong thời gian ngắn như việc Thư ký vì lý do sức khỏe mà không thể tham gia phiên tòa được hoặc lý do như quy định tại điểm b của khoản 1 Điều 251 thì HĐXX có thể tạm ngừng phiên tòa. Thư ký Tòa án vắng mặt nhưng không thuộc trường hợp phải thay đổi; nếu sau khi vắng mặt quá 5 ngày mà Thư ký vẫn không thể tiếp tục tham gia phiên tòa được thì Hội đồng xét xử (HĐXX) phải mở lại phiên tòa, họp bàn trong phòng nghị án và phải căn cứ Điều 297 của BLTTHS ra quyết định hoãn phiên tòa với lý do Thư ký thuộc trường hợp bị thay đổi và đề nghị Chánh án Tòa án phân công người khác (Thư ký khác, Thẩm tra viên hoặc Thẩm phán) làm Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa. Trường hợp này chỉ xảy ra khi không có Thư ký dự khuyết hoặc không có Thư ký nào tiến hành tố tụng tại phiên tòa.

Ví dụ: Phiên tòa có 01 Thư ký nhưng vắng mặt hoặc vì lý do sức khỏe không thể tham gia phiên tòa mà không có Thư ký dự khuyết; phiên tòa có hai Thư ký nhưng vì lý do bất khả kháng hoặc sức khỏe mà không còn Thư ký nào tiến hành tố tụng tại phiên tòa.

Thời điểm tạm ngừng phiên tòa đã được thể hiện rõ trong tên và nội dung của điều luật; đó là, thực hiện tại phiên tòa (tức là HĐXX đã tuyên bố khai mạc phiên tòa). Thời hạn ngừng phiên tòa: Có thể là vài chục phút hoặc vài tiếng, vài ngày nhưng tối đa không quá 5 ngày kể từ ngày HĐXX quyết định tạm ngừng phiên tòa.

Theo quy định tại Điều 251 thì Quyết định về việc tạm ngừng phiên tòa phải được HĐXX thảo luận và thông qua tại phòng xét xử mà không phải trong phòng nghị án; trên cơ sở đó HĐXX không phải ra quyết định tạm ngừng mà chỉ cần thông báo ngay tại phiên tòa cho người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng biết đồng thời Thư ký phiên tòa ghi vào trong biên bản phiên tòa. Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, việc xét xử vụ án được tiếp tục. Trường hợp không thể tiếp tục xét xử vụ án thì phải hoãn phiên tòa.

3. Những hạn chế, vướng mắc

- Thứ nhất, trường hợp vắng mặt Thư ký Tòa án tại phiên tòa thì Tòa án tạm ngừng phiên tòa hay tiếp tục xét xử khi có Thư ký dự khuyết?

Vấn đề này hiện nay có hai quan điểm khác nhau; quan điểm thứ nhất cho rằng Điều 251 của BLTTHS chưa có quy định nên HĐXX phải ngừng phiên tòa, vì trong thời hạn 5 ngày Thư ký Tòa án đã được phân công tiến hành tố tụng tại phiên tòa đảm bảo sẽ có mặt để tiến hành tố tụng. Mặt khác, Điều 251 không quy định Thư ký dự khuyết mà trong mọi trường hợp “Vắng mặt thư ký Tòa án tại phiên tòa” thì tạm ngừng phiên tòa. Trường hợp họ vắng mặt vì thuộc các căn cứ tại điểm b khoản 1 Điều 251 thì phải tạm ngừng phiên tòa.

Quan điểm thứ hai cho rằng, để đảm bảo phiên tòa không bị gián đoạn, không gây khó khăn, phiền hà cho người tham gia tố tụng và đảm bảo giải quyết vụ án nhanh kịp thời; đồng thời lường trước việc hoãn, ngừng phiên tòa; Chánh án Tòa án đã phân công Thư ký dự khuyết. Do vậy, khi Thư ký phiên tòa vắng mặt thì HĐXX căn cứ khoản 4 Điều 288 của BLTTHS (với lý do Thư ký Tòa án không tiếp tục tham gia phiên tòa) thay thế Thư ký Tòa án bằng Thư ký dự khuyết tiến hành tố tụng và phiên tòa vẫn tiến hành theo kế hoạch xét xử.

- Thứ hai, trường hợp có hai Thư ký tiến hành tố tụng tại phiên tòa nhưng một Thư ký vắng mặt hoặc vì lý do sức khỏe hoặc bất khả kháng thì Tòa án ngừng phiên tòa hay hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiếp tục xét xử?

BLTTHS chỉ quy định ngừng phiên tòa khi Thư ký vắng mặt hoặc Thư ký không thể tiếp tục tham gia phiên tòa được hoặc hoãn phiên tòa khi không có Thư ký dự khuyết. Theo cách hiểu thông thường thì đây là trường hợp phiên tòa có một Thư ký tiến hành tố tụng. Vậy trường hợp phiên tòa có jai Thư ký trở lên tiến hành tố tụng mà một người trong số họ vắng mặt, hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa được mà không có Thư ký dự khuyết thì HĐXX ngừng phiên tòa; hoãn hay vẫn tiếp tục xét xử vụ án. Xuất phát từ nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án khi tiến hành tố tụng, theo quan điểm chúng tôi thì phiên tòa chỉ hoãn, ngừng khi tại phiên tòa không có Thư ký Tòa án tiến hành tố tụng tại phiên tòa; trường hợp vẫn có Thư ký để tiến hành tố tụng tại phiên tòa (kể cả tại phiên tòa không đủ Thư ký theo như quyết định phân công) thì vẫn tiến hành xét xử bình thường.

- Thứ ba, từ quy định tại khoản 4 Điều 288, khoản 2 Điều 54 và khoản 2 Điều 299 của BLTTHS hiện nay đã dẫn đến hai cách thực hiện khác nhau.

Một là, theo khoản 4 Điều 288 và khoản 2 Điều 54 thì nếu Thư ký Tòa án bị thay thế hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa mà không có Thư ký dự khuyết thì HĐXX không phải nghị án mà ra quyết định tạm ngừng phiên tòa để thay thế Thư ký khác.

Hai là, căn cứ vào khoản 2 Điều 299 thì trường hợp thay thế Thư ký thì HĐXX vào phòng họp bàn nghị án ra biên bản thay thế thư ký tòa án khác.

Như vậy, cùng một trường hợp Thư ký phải thay thế mà có điều luật quy định ngừng phiên tòa, có điều luật quy định hoãn phiên tòa và trình tự thủ tục thực hiện cũng khác nhau. Đây là bất cập của luật.

Mặt khác, khoản 2 Điều 299 còn quy định việc thay thế người giám định, người định giá tại phiên tòa; theo chúng tôi quy định này là không đúng với bản chất của việc tham gia phiên tòa của những người này. Người giám định, người định giá tham gia phiên tòa để làm rõ quyết định giám định, định giá của mình (vì quyết định của họ được thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án tại cơ sở có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật) và khi Tòa án triệu tập thì họ có tư cách của một người tham gia tố tụng tại phiên tòa - chứ không giữ vai trò tiến hành phiên tòa như Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư ký hay trợ giúp cho phiên tòa được thực hiện như người phiên dịch, người dịch thuật. Do đó, chúng tôi kiến nghị bỏ nội dung này trong quy định tại khoản 2 Điều 299.

3. Kiến nghị

Từ những phân tích nêu trên chúng tôi cho rằng, việc bổ sung chế định ngừng phiên tòa là cần thiết. Tuy nhiên, thủ tục hoãn, ngừng phiên tòa được quy định tại các Điều 251, 288, 296, 299 chưa rõ ràng, chồng chéo; nên đã đẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau và gây khó khăn cho việc áp dụng. Do vậy, chúng tôi đề nghị cần có sự sửa đổi, bổ các điều luật trên để thống nhất và thuận lợi cho quá trình áp dụng pháp luật:

Thứ nhất,  bổ sung khoản 1 Điều 251 BLTTHS như sau: “c) Vắng mặt Thư ký Tòa án tại phiên tòa mà không có Thư ký Tòa án dự khuyết.”

Thứ hai, sửa đổi khoản 2 Điều 299 như sau: “ 2. Quyết định về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người phiên dịch, người dịch thuật, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, hoãn phiên tòa, bắt tạm giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và được lập văn bản.

TAND TP.Phan Thiết, Bình Thuận xét xử vụ án hình sự - Ảnh: Quế Hà

 

[i] Điều 251 của BLTTHS quy định về tạm ngừng phiên tòa

1. Việc xét xử có thể tạm ngừng khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa và có thể thực hiện được trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa;

b) Do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa;

c) Vắng mặt Thư ký Tòa án tại phiên tòa.

2. Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa và thông báo cho những người tham gia tố tụng biết. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa không quá 05 ngày kể từ ngày quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, việc xét xử vụ án được tiếp tục. Trường hợp không thể tiếp tục xét xử vụ án thì phải hoãn phiên tòa.”

VŨ TUẤN DŨNG (Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 3)