Tiếp tục phát huy thành tích đã đạt được, Toà án nhân dân nỗ lực bảo đảm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII

Nhìn lại 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp và các nghị quyết của Quốc hội, có thể khẳng định, hệ thống Tòa án nhân dân đã liên tục đổi mới và sáng tạo, nỗ lực không ngừng, triển khai quyết liệt nhiều giải pháp đột phá, hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Bài viết đánh giá tổng quan về những thành tựu đã đạt được của hệ thống Tòa án nhân dân trong thời gian vừa qua, đồng thời đưa ra các định hướng cải cách tư pháp trong thời gian tới.

1. Đánh giá tổng quan về những thành tựu đã đạt được

1.1. Hoàn thành nhiệm vụ xét xử với chất lượng ngày càng cao

Trong nhiệm kỳ 2016- 2020 vừa qua, hệ thống Tòa án nhân dân (TAND) đã hoàn thành đạt và vượt các chỉ tiêu, yêu cầu quan trọng được Quốc hội giao với chất lượng và hiệu quả cao. Các Tòa án đã thụ lý 2.433.631 vụ việc, đã giải quyết được 2.375.983 vụ việc, đạt tỷ lệ 97,6%. Chất lượng xét xử tiếp tục được bảo đảm và có nhiều tiến bộ; tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan hằng năm đều đạt chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội đề ra, dưới 1,5%. Tỷ lệ xét xử các vụ án hình sự đạt 99,5%, các vụ án dân sự đạt 97,3% và các vụ án hành chính đạt 89,3%; vượt chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội. Việc xét xử các vụ án hình sự bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra trường hợp nào kết án oan người không có tội; các vụ việc dân sự, vụ án hành chính được giải quyết bảo đảm khách quan, đúng pháp luật.

Các Tòa án đã đưa ra xét xử nghiêm 7.463 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp với 14.540 bị cáo và áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nghiêm khắc đối với người chủ mưu, cầm đầu, lợi dụng chức vụ chiếm đoạt tài sản của Nhà nước; đã áp dụng các biện pháp thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản để thu hồi hàng chục nghìn tỷ đồng theo đúng quy định của pháp luật. Các bản án được ban hành đúng pháp luật, thể hiện tính nghiêm minh nhưng cũng nhân văn, được Nhân dân đánh giá cao, dư luận đồng tình, ủng hộ.

TAND các cấp đã chủ trì, phối hợp với Công an và Viện kiểm sát cùng cấp rà soát hồ sơ để trình Chủ tịch nước quyết định đặc xá tha tù trước thời hạn cho 21.324 phạm nhân đang chấp hành án phạt tù; 231 người đang được hoãn chấp hành án phạt tù và 19 người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện được hưởng đặc xá. Quá trình thực hiện quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước đảm bảo chặt chẽ, công khai, minh bạch, công bằng và đúng pháp luật. Thủ tục xét đơn xin ân giảm án tử hình đều được Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) xem xét thận trọng, bảo đảm đầy đủ, có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

1.2. Hoàn thiện thể chế, pháp luật

TANDTC đã chủ trì xây dựng 09 dự án luật, pháp lệnh. Quá trình xây dựng đã thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như quy định của Hiến pháp năm 2013 về việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án. Các dự án luật, pháp lệnh được TANDTC chuẩn bị đều có tính khả thi cao, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ cải cách tư pháp (CCTP), đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng. Đặc biệt, TANDTC đã xây dựng và trình Quốc hội thông qua dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Đây là cơ chế giải quyết tranh chấp hòa thuận giữa các bên, được áp dụng rất hiệu quả tại nhiều nước mà không phải đưa ra xét xử, đảm bảo tiết kiệm nguồn lực xã hội, đem lại lợi ích thực chất cho người dân. Luật đã có hiệu lực thực thi và bắt đầu phát huy hiệu quả tích cực.

Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành 49 Nghị quyết, Chánh án TANDTC ban hành 05 Thông tư; TANDTC đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên ngành ký ban hành 17 Thông tư liên tịch để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, tháo gỡ vướng mắc thực tiễn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Chánh án TANDTC đã công bố 52 án lệ, trở thành nguồn pháp luật bù đắp cho những khoảng trống pháp luật chưa được điều chỉnh hoặc chưa quy định rõ ràng. Mặc dù việc phát triển án lệ ở Việt Nam mới đang ở giai đoạn đầu, nhưng một số án lệ được Chánh án Tòa án tối cao nhiều nước đánh giá cao. Bắt đầu từ nhiệm kỳ này, đã mở ra thời kỳ mới khi các Thẩm phán đã hình thành kỹ năng áp dụng án lệ trong xét xử, như xu thế toàn cầu. Trên thực tế, cho đến nay đã có hơn 1.000 bản án của Tòa án các cấp viện dẫn án lệ để xét xử.

1.3. Đổi mới tổ chức bộ máy và công tác cán bộ

Ngay khi Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, TANDTC đã triển khai thành lập các TAND cấp cao theo mô hình Tòa án 04 cấp; thực hiện thẩm quyền xét xử phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng. Đến nay, hoạt động của 04 cấp Tòa án đã ổn định, nền nếp và phát huy tác dụng của mô hình tổ chức Tòa án mới, đảm bảo tính chuyên môn hóa cao. Bên cạnh đó, TANDTC đã tổ chức sắp xếp lại các Tòa chuyên trách tại TAND cấp tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII và thành lập mới 38 Tòa gia đình và người chưa thành niên theo quy định của luật, đảm bảo tính chuyên sâu và phù hợp với thông lệ quốc tế. Toàn hệ thống Tòa án hiện có 247 Tòa chuyên trách tại 63 TAND cấp tỉnh, giảm 34 Tòa chuyên trách so với trước đây. Số lượng Tòa án quân sự (TAQS) cũng được tổ chức lại, còn 09 TAQS quân khu và tương đương, 10 TAQS khu vực (giảm 07 TAQS khu vực so với trước). Các TAND đã thực hiện tốt Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị với 1.808 biên chế được tinh giản (hiện có 13.429 biên chế trên tổng số 15.237 biên chế được giao), đạt 11,87%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.

Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhất là người giữ chức danh tư pháp trong TAND được nâng cao; có trình độ đồng đều hơn so với trước đây nhờ việc thực hiện thi tuyển chọn, thi nâng ngạch tập trung, thống nhất và có tính cạnh tranh cao. TANDTC đã tổ chức thành công 14 kỳ thi tuyển chọn, nâng ngạch Thẩm phán cao cấp, trung cấp và sơ cấp cho 5.378 người. Quá trình thi tuyển được tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc, đúng quy định; đã góp phần lựa chọn được đội ngũ cán bộ thực sự có đủ đức, đủ tài, tâm huyết cống hiến cho sự nghiệp phát triển nền tư pháp nước nhà. Công tác đào tạo, bồi dưỡng tiếp tục được chú trọng và có nhiều đổi mới, đặc biệt là tập huấn trực tuyến, đối thoại trực tuyến giữa Hội đồng Thẩm phán TANDTC với các Thẩm phán và cán bộ Tòa án. Đến nay, đã tổ chức hơn 30 buổi đối thoại trực tuyến giữa Hội đồng Thẩm phán TANDTC và Thẩm phán Tòa án các cấp để trao đổi, giải đáp những vướng mắc với trên 15.000 Thẩm phán và các chức danh tư pháp, cán bộ khác tham gia. Phương pháp này đã góp phần đáng kể nâng cao chất lượng đội ngũ công chức trong TAND.

Việc thí điểm thi tuyển chọn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp vụ theo chủ trương của Ban Bí thư đã được TANDTC thực hiện nghiêm túc và thành công. Qua tổ chức 02 kỳ thi tuyển, đã lựa chọn được 06 công chức để bổ nhiệm lãnh đạo cấp Vụ, tạo tiền đề mang tính đột phá trong công tác cán bộ, khuyến khích người có tài, có đức tham gia công tác quản lý, điều hành tại các đơn vị, Tòa án thông qua cơ chế thi tuyển cạnh tranh.

Kỷ luật, kỷ cương công vụ đối với các cán bộ, công chức, nhất là người có chức danh tư pháp được đảm bảo. TANDTC đã ban hành Quyết định số 120/TANDTC-QĐ ngày 19/6/2017 về xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong Tòa án nhân dân; “Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán”, Chỉ thị số 05/2020/CT-CA ngày 28/7/2020 về tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhất là các chức danh tư pháp liêm chính, chuyên nghiệp; xây dựng Tòa án trong sạch, vững mạnh.

1.4. Bảo đảm cơ sở vật chất, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin

Nhiệm kỳ qua, Tòa án đã hoàn thành đầu tư, xây dựng trụ sở mới của TANDTC, trụ sở của 03 TAND cấp cao, 21 trụ sở TAND cấp tỉnh, 49 trụ sở TAND cấp huyện. Đã triển khai thực hiện xong 3 giai đoạn của Đề án “Trang bị phương tiện làm việc của Tòa án nhân dân”; cung cấp, trang bị bàn ghế cho phòng xét xử theo mô hình mới cho TAND các cấp, bảo đảm tính trang nghiêm, thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa cũng như vai trò trung tâm của Hội đồng xét xử. Trang phục xét xử đã được trang cấp đầy đủ cho các Thẩm phán, tạo nên diện mạo mới, đề cao tính uy nghiêm của nền tư pháp nước nhà. Hiện nay, TANDTC đang tiếp tục đề xuất và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội cấp trang phục của Hội thẩm nhân dân để đảm bảo đồng bộ, thống nhất giữa các thành viên của Hội đồng xét xử.

Trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp lần thứ tư và ứng dụng công nghệ số, TANDTC đã tích cực đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, triển khai các ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động của Tòa án để nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của Tòa án. Với việc triển khai các ứng dụng trên nền tảng số và đổi mới thủ tục hành chính tư pháp, Tòa án đã tạo điều kiện cho người dân tiếp cận công lý dễ dàng, thuận tiện khi giải quyết công việc trong quá trình tố tụng. Cổng thông tin điện tử TAND; hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến; trang điện tử án lệ; phần mềm công bố bản án, quyết định của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử TAND; phần mềm đăng ký trực tuyến cấp sao bản án, tài liệu trong hồ sơ vụ án; hệ thống gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án bằng phương tiện điện tử; hệ thống giám sát Thẩm phán... đã hỗ trợ Tòa án các cấp nâng cao hiệu quả công tác, tăng cường tính minh bạch của hoạt động tư pháp, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và thuận lợi cho công chúng.

2. Định hướng cải cách tư pháp trong thời gian tới

Để kịp thời triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Ban cán sự đảng TANDTC đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng trong TAND nghiêm túc tham gia và tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết trong toàn hệ thống Tòa án. Trên cơ sở các quan điểm, chủ trương của Đảng và kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban cán sự đảng TANDTC đã ban hành Chương trình hành động toàn khóa nhiệm kỳ 2021-2026, trong đó, xác định 25 nhiệm vụ, công tác lớn. Cấp ủy đảng và lãnh đạo Tòa án các cấp đã khẩn trương xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp gắn với chức năng, nhiệm vụ được giao và phù hợp với đặc điểm tình hình, điều kiện thực tế của các đơn vị và địa phương.

Qua tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII, các Nghị quyết về CCTP của Đảng và triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII cùng các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Nghị quyết của Quốc hội về công tác tư pháp, công tác CCTP trong thời gian tới của hệ thống TAND sẽ tập trung vào một số điểm lớn sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử. CCTP tại Tòa án phải bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng; triển khai thực hiện đầy đủ, toàn diện những chủ trương của Đảng và các Nghị quyết về CCTP. Đổi mới tổ chức TAND phải gắn với đổi mới mô hình tổ chức đảng trong hệ thống Tòa án để bảo đảm độc lập tư pháp, tách bạch hợp lý giữa tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử với việc phân chia theo địa giới hành chính, đồng thời, bố trí Chánh án các cấp tham gia cấp ủy cùng cấp với cương vị cao hơn hiện tại và phù hợp với từng địa bàn. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế phù hợp để tăng cường sự giám sát của cơ quan dân cử và các tổ chức chính trị, xã hội đối với hoạt động của Tòa án, nhưng không can thiệp, làm ảnh hưởng đến hoạt động của Tòa án, cũng như tính độc lập trong hoạt động tư pháp.

Thứ hai, cần làm rõ nội hàm của quyền tư pháp đã được quy định tại Hiến pháp năm 2013, để từ đó, xác định chủ thể thực hiện quyền tư pháp và đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp. Cần có nhận thức thống nhất rằng, quyền tư pháp là quyền bảo vệ pháp luật; quyền xét xử và đưa ra phán quyết đối với tranh chấp, vi phạm pháp luật và quyết định những vấn đề liên quan đến quyền con người; quyền xem xét, quyết định về các văn bản vi phạm Hiến pháp và pháp luật; quyền hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ. Đồng thời, xác định rõ vị trí trung tâm của quyền xét xử trong hệ thống tố tụng và tiến hành CCTP để thực hiện đầy đủ những đặc trưng của quyền xét xử đã được hiến định, bao gồm: TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Tòa án.

Thứ ba, xây dựng nền tư pháp công khai, minh bạch phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân. CCTP trước hết phải nhằm công khai, minh bạch và thuận lợi cho Nhân dân; tăng cường sự hiểu biết và sự tin tưởng của quần chúng Nhân dân đối với nền tư pháp; xây dựng mô hình tố tụng và các thủ tục khoa học và thuận tiện cho Nhân dân; dựa trên nền tảng khoa học công nghệ hiện đại để thúc đẩy tính công khai, minh bạch của hoạt động tư pháp và phục vụ Nhân dân có hiệu quả nhất. Cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế công khai hoạt động xét xử; công khai về quy trình xét xử; công khai bản án, quyết định của Tòa án... để Nhân dân tiếp cận thông tin tư pháp và giám sát hoạt động tư pháp. Thực hiện phương châm “Công khai là nguyên tắc, không công khai là ngoại lệ”. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế công khai thông tin thi hành án; việc giảm án, tha tù trước thời hạn và chủ động tiếp nhận sự giám sát của xã hội đối với công tác thi hành án.

Quy định cụ thể và tách bạch giữa công tác quản lý hoạt động của Tòa án, các hoạt động hành chính tư pháp với công tác xét xử; đổi mới thủ tục hành chính tư pháp theo hướng tổ chức tại các Tòa án bộ phận hành chính tư pháp, thực hiện một cửa liên thông và đơn giản hóa việc tiếp nhận, hướng dẫn giải quyết các yêu cầu của cơ quan, tổ chức, công dân; thực hiện quy trình phân án ngẫu nhiên. Cần nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới để thực hiện tống đạt điện tử; nhận đơn, trả lời kết quả giải quyết qua mạng Internet và qua bưu điện; quy định ràng buộc nghĩa vụ xác nhận địa chỉ tống đạt của các đương sự và hậu quả pháp lý tương ứng. Xây dựng, hoàn thiện các giải pháp thay thế xét xử cũng như các cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án; tiếp tục triển khai thi hành có hiệu quả Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Thực hiện xét xử trực tuyến, điều trần trực tuyến, hòa giải trực tuyến.

Thứ tư, hoàn thiện tổ chức bộ máy và hoạt động của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, có sự tách bạch hợp lý với các đơn vị hành chính theo hướng tổ chức các Tòa án sơ thẩm khu vực trên cơ sở sáp nhập một hoặc một số Tòa án cấp huyện. Đồng thời, nghiên cứu, đề xuất tổ chức các Tòa chuyên trách sơ thẩm khu vực để giải quyết các vụ việc đòi hỏi yêu cầu chuyên sâu về ngành, lĩnh vực tương ứng với tính chất và quy mô của các loại vụ việc, như: Tòa sơ thẩm khu vực về môi trường; sở hữu trí tuệ; phá sản. Cải cách quy định về thẩm quyền đối với vụ án hành chính theo hướng nâng một cấp thụ lý vụ án hành chính.

Thứ năm, xây dựng cơ chế bảo đảm cho Tòa án thực thi quyền xét xử độc lập theo pháp luật. Cần có cơ chế phòng ngừa sự can thiệp của những người không có thẩm quyền vào hoạt động xét xử và xử lý trách nhiệm đối với người can thiệp tiêu cực vào hoạt động xét xử, thi hành án. Kiện toàn cơ chế bảo vệ Thẩm phán đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ luật định, trong đó, quy định rõ việc miễn trừ trách nhiệm đối với sai sót của các chủ thể thực hiện quyền tư pháp; bảo đảm Thẩm phán đã làm theo đúng chức năng luật định sẽ không bị truy cứu trách nhiệm và tránh được những tố cáo không có thực nhằm vào Thẩm phán. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền uy tư pháp, theo đó, thực hiện truy cứu trách nhiệm đối với hành vi không thi hành bản án, quyết định của Tòa án, coi thường quyền uy tư pháp. Nghiên cứu, sửa đổi quy định của pháp luật có liên quan, để xử lý thích đáng hành vi coi thường Tòa án, vi phạm trật tự phiên tòa; có cơ chế xử lý đối với hành vi xâm phạm, cản trở các hoạt động tố tụng (làm giả, hủy hoại chứng cứ, hồ sơ tài liệu, cố ý kéo dài tố tụng, khai báo, cung cấp tài liệu bất nhất, đeo bám tố tụng...) và buộc người vi phạm phải bồi thường đối với những thiệt hại do tố tụng giả, tố tụng ác ý gây ra.

Thứ sáu, đổi mới và hoàn thiện thủ tục tố tụng, xây dựng chế độ tố tụng lấy xét xử làm trung tâm. Bảo đảm thực hiện tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa; thực hiện triệt để nguyên tắc phán quyết trên cơ sở chứng cứ và kết quả tranh tụng; hoàn thiện quy định về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự; đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử, phân định rõ thẩm quyền của cấp sơ thẩm, phúc thẩm; đổi mới, tăng cường áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết các loại vụ án theo quy định; xây dựng cơ chế tố tụng thân thiện đối với người chưa thành niên. Bên cạnh đó, quyền của người tham gia tố tụng tại Tòa án phải được bảo đảm thực hiện đầy đủ, như: không để bị cáo đang bị tạm giam, người kháng cáo mặc trang phục có tính chất phân biệt đối xử khi tham dự phiên tòa; bảo vệ quyền được biết, được trình bày, được bào chữa, đề nghị, khiếu nại, tố cáo của đương sự và người tham gia tố tụng khác; tăng cường sự bình đẳng giữa Kiểm sát viên và luật sư trong tranh tụng.

Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế giám sát tư pháp đối với việc áp dụng biện pháp tư pháp hạn chế quyền tự do của con người, biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ trái luật; quy định về chế độ khoan hồng đối với người nhận tội trong tố tụng hình sự và có cơ chế phân luồng vụ án mà người phạm tội tự nhận tội để tối ưu hóa việc phân bổ nguồn lực tư pháp. Nghiên cứu, xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng bản án, quyết định của Tòa án và xác định rõ trách nhiệm của thành viên Hội đồng xét xử (Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân); cải cách chế định Hội thẩm nhân dân theo hướng thực chất hơn; nâng cao chất lượng văn bản tố tụng, đặc biệt là bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế xem xét theo thủ tục đặc biệt (giám đốc thẩm, tái thẩm) để không biến thủ tục này thành cấp xét xử thứ ba; đổi mới toàn diện về nhiệm vụ, thẩm quyền của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

Thứ bảy, xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án chính quy, chuyên nghiệp, liêm chính, tận tụy. Chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm, nâng ngạch Thẩm phán cần tiếp tục cải cách theo hướng xây dựng cơ chế đánh giá Thẩm phán khoa học, hợp lý, khách quan, công bằng, coi kết quả đánh giá là cơ sở quan trọng trong việc tuyển chọn, nâng ngạch Thẩm phán. Cơ chế đào tạo, bồi dưỡng đối với Thẩm phán cần được đổi mới, lấy nhu cầu thực tế để xây dựng chương trình, kế hoạch bồi dưỡng, tập huấn phù hợp; phân cấp, phân loại tập huấn đối với đội ngũ Thẩm phán và tập trung nâng cao khả năng chủ trì việc xét xử, điều hành phiên tòa tranh tụng, năng lực áp dụng pháp luật và kỹ năng soạn thảo văn bản tố tụng. Có cơ chế khuyến khích và đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán để có kỹ năng chuyên sâu, chuyên nghiệp về những lĩnh vực chuyên môn hẹp, có trình độ ngoại ngữ, am hiểu pháp luật quốc tế. Đồng thời, phải hoàn thiện chế độ tiền lương đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án với thang bảng lương và chế độ đãi ngộ độc lập, phù hợp với đặc thù công việc của Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác tại Tòa án, nhằm thu hút nhân tài, tạo điều kiện để những người giữ chức danh tư pháp yên tâm công tác và cống hiến.

Thứ tám, xây dựng Tòa án điện tử trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong hoạt động tố tụng và quản trị Tòa án. Cần xây dựng cơ chế pháp lý phù hợp để tiến hành triển khai các ứng dụng kỹ thuật số, như xét xử trực tuyến, hòa giải trực tuyến, điều trần trực tuyến, thu, nộp án phí, chi phí tố tụng, giao nộp, cung cấp chứng cứ, tống đạt văn bản tố tụng, lấy lời khai... Triển khai kết nối, sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu của các Bộ, ngành để phục vụ cho hoạt động tố tụng điện tử. Xây dựng và sử dụng phần mềm để quản lý, giám sát hoạt động trong nội bộ hệ thống Tòa án như quản lý án, quản lý cán bộ, tài chính... Đồng thời, phát triển các “Kho dữ liệu quốc gia về các bản án, quyết định của Tòa án”, Trung tâm dữ liệu của Tòa án và các hệ thống thiết bị cho phòng xét xử, chuyển đổi giọng nói tại phiên tòa thành văn bản… để biến các dữ liệu lời nói, văn bản thông thường thành các dữ liệu số có khả năng lưu trữ lâu dài và có thể sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ cho quá trình xét xử. Tiếp tục phát triển các ứng dụng cung cấp các dịch vụ tư pháp công trên nền tảng số, như: nhận đơn, trả lời đơn, giới thiệu pháp luật và thông tin hoạt động tư pháp.

Thực hiện những định hướng CCTP nói trên, hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là thiết thực xây dựng TAND liêm chính, chuyên nghiệp, uy tín, hiện đại, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân./.

PGS. TS. NGUYỄN HOÀ BÌNH (Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Chánh án TANDTC)