Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Trên thực tế, đã có sự nhầm lẫn trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi người áp dụng pháp luật không phân biệt được thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ. Không ít trường họp cứ thấy có hành vi trái pháp luật của con người gây thiệt hại, hành vi gây thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ là xác định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra…

1. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Bồi thường thiệt hại (BTTH) do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường.

Tức là việc xác định trách nhiệm BTTH không phụ thuộc vào yếu tố lỗi nhằm nâng cao trách nhiệm của chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ buộc họ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật.

Điều 601, BLDS năm 2015 quy định: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định….”, khái niệm này đã kế thừa toàn bộ theo quy đinh tại khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2005. Theo đó, Điều 623, BLDS năm 2005 cũng như hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về BTTH ngoài hợp đồng, không đưa ra khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, qua quy định trên, ta có thể hiểu: “Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất định do pháp luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối”.

Thực tế, việc xác định nguồn nguy hiểm cao độ không chỉ căn cứ vào khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ tại Điều 601 BLDS mà còn phải căn cứ vào các văn bản, các quy định khác có liên quan.

Bên cạnh đó, theo Điều 601, BLDS 2015 thì: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây: (i) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; (ii) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải BTTH.
Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới BTTH”.
Việc áp dụng quy định về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải xác định thiệt hại đó do tự thân nguồi nguy hiểm cao độ gây ra hay do hành vi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Theo chúng tôi, chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại khi có đủ hai yếu tố sau: (1) Phải có sự hiện diện của một loại nguồn nguy hiểm cao độ, tức là tài sản gây thiệt hại phải là nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2005 và Điều 601 BLDS năm 2015; (2) Thiệt hại phải do tự thân hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (ví dụ xe ô tô đang di chuyển thì bị nổ lốp gây thiệt hại, xe ô tô đang xuống dốc thì đứt phanh dẫn đến tai nạn…).

2. Quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Thứ nhất, nguyên tắc BTTH

Theo Điều 585 BLDS năm 2015, việc BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải tuân theo các nguyên tắc sau: (1) Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Việc bồi thường xuất phát từ nguyên tắc công bằng, thiệt hại bao nhiêu thì mức bồi thường sẽ là bấy nhiêu. Và việc bồi thường phải kịp thời cho người bị thiệt hại nhằm khắc phục tình trạng về tài sản của người bị thiệt hại, tạo điều kiện cho họ khắc phục tài sản khi bị thiệt hại. Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bao gồm những chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; (2) Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. Điều này nhằm tạo ra tính khả thi trong việc thực hiện BTTH trên thực tế. Vì có rất nhiều trường hợp mà khi mức thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của người liên quan đến trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì họ không thể thực hiện việc bồi thường cho chủ thể kia do không đủ tài chính để chi trả; (3) Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Việc thay đổi mức bồi thường sẽ căn cứ vào yêu cầu của các bên và thực tế cần phải sự thay đổi mức bồi thường và do Tòa án xác định. Mức bồi thường có thể tăng hoặc giảm tùy theo việc xác định đó; (4) Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra; (5) Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.

Thứ hai, điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH

(1) Có thiệt hại xảy ra, thiệt hại được hiểu là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không bao gồm thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Bởi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại là do sự hoạt động của các phương tiện cơ giới, do vậy những thiệt hại gây ra cho người bị thiệt hại là tài sản, sức khỏe, tính mạng. Hơn nữa, do tính chất nguy hiểm “cao độ” nên nguồn nguy hiểm cao độ có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai, có thể là chính chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành hay cả những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… nên trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh” – là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ đến nguồn nguy hiểm đó nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.

(2) Thiệt hại do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Ngay tên của điều luật, Điều 601 BLDS 2015 đã xác định: “BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”. Do đó cần xác định rõ: Thiệt hại phải do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; Đối với phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp thì chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi “đang hoạt động”. Còn trường hợp thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái “tĩnh” thì không thể coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Tuy nhiên, trong nguồn nguy hiểm cao độ luôn luôn tiềm ẩn những rủi ro nhất định có thể xảy ra nên có những sự kiện bất ngờ mà con người không thể biết trước và phòng tránh được. Ví dụ: Do mưa làm cho cột điện bị nhiễm điện, người nào không biết đi qua đó bị nhiễm điện chết. Trong trường hợp này thiệt hại xảy ra là do sự kiện bất ngờ, bất khả kháng chứ không phải do hành vi của con người gây ra và con người cũng không sao kiểm soát và phòng ngừa hiệu quả hết được, nên không phát sinh trách nhiệm BTTH.

(3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra. Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó là bằng chứng để xác định có hay không có trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng thì hành vi trái pháp luật được coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Về mặt nguyên tắc, hành vi trái pháp luật phải có trước và thiệt hại có sau. Như vậy, để phát sinh trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì tự thân sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại. Trường hợp người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà có lỗi trong việc sử dụng chúng đã gây ra thiệt hại thì trách nhiệm BTTH không phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

(4) Lỗi trong trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phát sinh ngay cả khi chủ sở hữu hay người sử dụng nguồn nguy hiểm không có. Theo khoản 3 Điều 601 BLDS thì: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải BTTH ngay cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây: (i) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; (ii) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác”.

Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.
Một điểm quan trọng cần lưu ý là lỗi của chủ sở hữu, người chiếm hữu trong trách nhiệm BTTH do tài sản (trong đó có nguồn nguy hiểm cao độ) gây ra chỉ có thể là lỗi vô ý. Chủ thể này đã không nhìn thấy trước nguy cơ tài sản có thể gây thiệt hại – điều mà những người chu đáo, cẩn thận sẽ nhận thấy được trong hoàn cảnh tương tự. Thiệt hại phát sinh khi chủ sở hữu, người quản lý tài sản đã không thực hiện sự quan tâm, chu đáo cần thiết khi thực hiện nghĩa vụ quản lý tài sản.

Nếu như các trường hợp BTTH thông thường dựa trên sự suy đoán lỗi thì trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dựa trên sự suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ quản lý nguồn nguy hiểm cao độ. Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ nằm ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của người chiếm hữu, vận hành và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này mà sẽ áp dụng trách nhiệm BTTH nói chung. Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không loại trừ khả năng thiệt hại cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hành vi của người trông giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên nhân có tính quyết định đến thiệt hại. Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp họ chứng minh được mình không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ. Bởi lẽ yếu tố lỗi không phải là một điều kiện tiên quyết làm phát sinh trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người (như xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp trước dẫn đến đổi hưởng đột ngột gây thiệt hại) hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.

Thứ ba, chủ thể chịu trách nhiệm BTTH.

Khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, chủ thể chịu trách nhiệm BTTH có thể là chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng tài sản.

(1) Trách nhiệm của chủ sở hữu. Chủ sở hữu là người thực hiện các quyền năng đối với tài sản, trong đó có quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Theo lẽ công bằng, khi tài sản mang lại lợi ích, chủ sở hữu được hưởng, thì khi tài sản gây ra thiệt hại, chủ sở hữu phải bồi thường là hoàn toàn phù hợp. Nên trách nhiệm BTTH của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ xuất phát từ việc chủ sở hữu được hưởng lợi ích mà tài sản mang lại, bất kể trong việc quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, chủ sở hữu có lỗi hay không có lỗi.

Chủ sở hữu có thể phải chịu trách nhiệm BTTH ngay cả khi không trực tiếp chiếm hữu, sử dụng tài sản. Đó là các trường hợp: chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng để phục vụ cho lợi ích của chính mình (công ty chịu trách nhiệm bồi thường do xe ô tô mà nhân viên của công ty điều khiển gây ra thiệt hại); chủ sở hữu cho người khác thuê, cho mượn nhưng có thỏa thuận với người về việc chủ sở hữu chịu trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại; chủ sở hữu có lỗi để cho nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật; Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm BTTH.

Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây ra tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt: (i) Nếu B chỉ được A thuê lái xe ô tô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, A phải BTTH; (ii) Nếu B được A giao xe ô tô thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa A không còn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà B là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, B phải BTTH. Nếu trong trường hợp này được sự đồng ý của A, B giao xe ô tô cho C thông qua hợp đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó nên C phải BTTH.

(2) Trách nhiệm của người được giao chiếm hữu, sử dụng. Người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có thể là người được giao thông qua một giao dịch dân sự hoặc có thể thông qua một quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, quyết định của người sử dụng lao động…Vấn đề đặt ra là người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo căn cứ nào thì phải BTTH khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại? Vấn đề này thì cả BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 đều không quy định cụ thể, nhưng Nghị quyết số 03/2006 lại có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Theo hướng dẫn tại điểm đ tiểu mục 2 mục III Nghị quyết này, người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải chịu trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải là người được giao thông qua một giao dịch. Đa số ý kiến của các nhà làm luật cũng như tác giả đều đồng nhất với quan điểm hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006, theo đó, chỉ những người được giao thông qua giao dịch như người thuê, người mượn… mới phải BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng phải BTTH ngay cả khi không có lỗi trong việc chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, người được chuyển giao, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có phải chịu trách nhiệm BTTH hay không, bồi thường với mức độ nào thì còn phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa họ và chủ sở hữu. Nếu các bên không có thỏa thuận gì khác thì người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải BTTH khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại trong thời gian mình chiếm hữu, sử dụng.

(3) Trách nhiệm BTTH của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ. Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản của người khác mà không thông qua việc được chuyển giao và không thuộc các trường hợp chiếm hữu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại, họ phải chịu trách nhiệm bồi thường và cơ sở xác định trách nhiệm của họ luôn xuất phát từ sự vi phạm. Ngay cả khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại mà họ quản lý nghiêm ngặt thì họ vẫn bị coi là vi phạm, bởi vì sự vi phạm này xảy ra ngay khi họ chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ của người khác. Chính việc chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật của họ sẽ làm tăng thêm khả năng nguồn nguy hiểm cao độ có thể gây ra thiệt hại cho con người và môi trường xung quanh, bởi bản thân họ có thể không nắm được tình trạng của tài sản và cũng không được sự chỉ dẫn của chủ sở hữu nên khó có thể đề phòng khả năng gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ.

3. Những nhầm lẫn trong thực tiễn

Trên thực tế, đã có sự nhầm lẫn trong việc xác định trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi người áp dụng pháp luật không phân biệt được thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ. Không ít trường hơp cứ thấy có hành vi trái pháp luật của con người gây thiệt hại, hành vi gây thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ là xác định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Ba vụ việc sau đây là những điễn hình cụ thể:

*Vụ việc thứ nhất: N ký hợp đồng với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và dịch vụ TC (Công ty TC) về việc thuê xe ô tô tự lái (loại xe 4 chỗ ngồi). Theo hợp đồng, Công ty TC cho N thuê xe ô tô 03 ngày (từ ngày 05/4 đến 07/4/2018), giá mỗi ngày 100.000 đồng. Khoảng 12 giờ ngày 06/4/2018, N điều khiển xe ôtô lưu thông trên Quốc lộ 1A theo hướng Bắc – Nam, đến địa phận xã H, huyện Đ, tỉnh Q, do chạy quá tốc độ, đi không đúng phần đường nên đã tông vào xe đạp do chị V điều khiển đi ngược chiều gây tai nạn. Hậu quả, chị V tử vong tại chỗ. Với hành vi trên, Toà án nhân dân huyện Đ kết án N 12 tháng tù về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 và áp dụng Điều 601 BLDS buộc Công ty TC (do anh B làm đại diện) bồi thường cho gia đình nạn nhân V số tiền 70 triệu đồng (Toà án xác định Công ty TC là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, phải chịu trách nhiệm BTTH cho người bị hại).

Theo tác giả, về trách nhiệm dân sự trong vụ án này, việc Toà án áp dụng Điều 601 BLDS năm 2015 để buộc Công ty TC BTTH cho thân nhân gia đình chị V là không đúng qui định của pháp luật. Như đã phân tích ở trên về điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để có thể áp dụng Điều 601 BLDS về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, cần xác định rõ: Thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ? Thiệt hại có phải do “tự thân” nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay không? Đối với vụ án trên, thiệt hại xảy ra là do hành vi trái pháp luật của N. Hay nói cách khác, hành vi trái pháp luật của N (điều khiển xe ôtô chạy quá tốc độ và đi không đúng phần đường) là nguyên nhân trực tiếp, quyết định gây ra thiệt hại về tính mạng đối với chị V. Xe ôtô do N thuê của Công ty TC là nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng trong vụ án này xe ôtô là phương tiện liên quan đến việc gây ra thiệt hại chứ bản thân sự hoạt động tự thân của xe ôtô không gây ra thiệt hại. Mặt khác N là người được chủ sở hữu chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa Công ty TC không còn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà N là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, N là chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH.

Như vậy, trách nhiệm BTTH trong vụ án này là trách nhiệm BTTH thông thường do hành vi trái pháp luật của con người gây ra chứ không phải BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là N chứ không phải Công ty TC; căn cứ pháp luật để áp dụng khi xác định chủ thể phải bồi thường là các Điều 584, Điều 591 của BLDS năm 2015.

*Vụ việc thứ hai: Khoảng 16 giờ ngày 25/6/2018, sau khi uống nhiều rượu cùng bạn bè tại quán, Đ điều khiển xe mô tô đi trên Quốc lộ 1A theo hướng Nam – Bắc về nhà mình ở thị trấn H, huyện V. Khi đến km 755+500, do quá say rượu, không làm chủ bản thân nên Đ điều khiển xe chạy từ bên phải sang bên trái đường theo chiều đi của mình và tông vào xe ô tô do anh K điều khiển (xe ô tô thuộc quyền sở hữu của K) đi ngược chiều gây tai nạn. Hậu quả: Đ tử vong tại chỗ. Các cơ quan tiến hành tố tụng huyện V xác định tai nạn xảy ra hoàn toàn do lỗi (vô ý) của Đ nên quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Gia đình Đ khởi kiện về dân sự yêu cầu Tòa án giải quyết buộc K phải BTTH. Tòa án huyện V đã áp dụng Điều 601 BLDS buộc K bồi thường cho gia đình nạn nhân Đ số tiền 40 triệu đồng.

Việc buộc K phải BTTH cho gia đình Đ theo lập luận của Tòa án V là căn cứ vào hướng dẫn tại điểm 2 mục III Nghị quyết 03/2006. Điểm 2 mục III nghị quyết này đưa ra ví dụ để hướng dẫn cho trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp: “Xe ô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị thương hoặc bị chết”. Quan điểm của Tòa án này cho rằng, ví dụ trên chỉ loại trừ trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; còn trong vụ việc này lỗi của người bị thiệt hại là lỗi vô ý nên trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ vẫn đặt ra.

Theo tác giả, cách hiểu về Điều 601 BLDS của Tòa án V là không đúng. Bởi lẽ cũng như đã phân tích ở trên, thiệt hại xảy ra trong vụ việc này là do hành vi trái pháp luật của con người (nạn nhân Đ) chứ không phải do hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô của anh K) gây ra. Vì vậy, chỉ có thể xem xét trách nhiệm dân sự thông thường do hành vi trái pháp luật của con người gây ra, trong đó lỗi là một trong bốn điều kiện bắt buộc. Trong vụ việc này, anh K không có lỗi đối với cái chết của nhận nhân Đ nên không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Việc giải quyết BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến phương tiện tham gia giao thông ở chúng ta hiện nay theo kiểu khi tai nạn xảy ra, xe lớn phải bồi thường cho xe nhỏ là không phù hợp với pháp luật, trừ khi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ và người bị thiệt hại có thỏa thuận.

Mặt khác, ví dụ mà Nghị quyết 03/2006 đưa ra trên đây là nhằm chỉ để hướng dẫn loại trừ trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. Tuy nhiên, ví dụ này còn có yếu tố chưa hợp lý vì có thể dẫn đến cách hiểu loại trừ trường hợp người bị thiệt hại cố ý lao vào xe ô tô tự tử (lỗi cố ý), thì mọi thiệt hại liên quan đến xe ô tô gây ra đều áp dụng trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Cách hiểu như vậy rõ ràng là không phù hợp cả về phương diện lý luận và tinh thần luật thực định.

Như vậy, trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thuộc chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Các khoản bồi thường trong trường hợp này cũng bao gồm BTTH về vật chất và khoản bù đắp tổn thất về tinh thần tương ứng với thiệt hại thực tế xảy ra. Mức bồi thường và cách thức tính toán các khoản bồi thường được chấp nhận tương tự như các trường hợp yêu cầu BTTH về tính mạng, sức khỏe, tài sản./.

Ths. ĐOÀN THỊ NGỌC HẢI ( Sở Tư pháp Ninh Bình)