Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang đề cập được định nghĩa như sau: PNTM phạm tội là PNTM thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến khách thể được BLHS ghi nhận, bảo vệ mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
1. Khái quát quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015
Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018. BLHS năm 2015 đã thể hiện bước phát triển quan trọng trong chính sách hình sự của Nhà nước, đánh dấu nhiều điểm tiến bộ thể hiện trong tư duy lập pháp hình sự . Đáng chú ý, một trong những điểm mới đột phá của BLHS năm 2015 là đã bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự (TNHS) của pháp nhân thương mại (PNTM) (các Điều 2, 3, 6, 8, 9, 33, 74-89 và 33 tội danh của Phần các tội phạm BLHS).
Như vậy, PNTM chỉ chịu TNHS về các tội phạm này trong trường hợp được thực hiện nhân danh và vì lợi ích, dưới sự điều hành, chấp thuận của chính PNTM đó. Điều này thể hiện quan điểm hoàn toàn đổi mới của các nhà lập pháp Việt Nam về chủ thể của tội phạm và đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong việc tập trung xử lý những vi phạm trong các lĩnh vực kinh tế và môi trường, tài trợ khủng bố và rửa tiền, đồng thời,tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại do các vi phạm của pháp nhân gây ra , cũng như trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế khi Việt Nam tham gia nhiều Công ước quốc tế về phòng, chống tội phạm như: Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000, Công ước chống tham nhũng năm 2003 của Liên Hợp quốc…
1.1. Khái niệm, cơ sở của TNHS đối với PNTM phạm tội
Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 quan niệm PNTM là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. PNTM bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt PNTM được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan. Cùng với đó, Điều 8 BLHS năm 2015 quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS hoặc PNTM thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Do đó, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang đề cập được định nghĩa như sau: PNTM phạm tội là PNTM thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến khách thể được BLHS ghi nhận, bảo vệ mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Trên cơ sở này, khoản 2 Điều 2 BLHS năm 2015 đã quy định: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam, quy định về cơ sở trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với PNTM đã được ghi nhận, đồng thời đây chính là “tuyên bố” mang tính nền tảng, tiền đề để các nhà làm luật quy định những vấn đề khác trong nội dung TNHS đối với pháp nhân của BLHS năm 2015. Nhấn mạnh hơn, về vấn đề này, rõ ràng “hành vi, lỗi của người lãnh đạo, chỉ huy, người đại diện cũng được coi là hành vi, lỗi của pháp nhân. Như vậy, lý thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm được các nhà lập pháp Việt Nam quy định là cơ sở quy định TNHS của PNTM” .
1.2. Nguyên tắc xử lý đối với PNTM phạm tội
Khoản 2 Điều 3 BLHS năm 2015 quy định năm nguyên tắc xử lý đối với PNTM phạm tội bên cạnh xử lý đối với người phạm tội như sau:
– Mọi hành vi phạm tội do PNTM thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;
– Mọi PNTM phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;
– Nghiêm trị PNTM phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
– Khoan hồng đối với PNTM tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.
Ngoài ra, cần lưu ý, kể cả PNTM nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng có thể bị truy cứu TNHS theo quy định của BLHS năm 2015 trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên (Điều 6 BLHS 2015).
1.3. Hình phạt và những quy định áp dụng đối với PNTM phạm tội
Lần đầu tiên trong BLHS năm 2015 đã quy định về hệ thống hình phạt và một chương độc lập – Chương XI “Những quy định đối với PNTM phạm tội” để áp dụng đối với đối tượng là PNTM phạm tội. Về hình phạt, BLHS năm 2015 quy định hai loại là hình phạt chính và hình phạt bổ sung áp dụng đối với PNTM phạm tội như sau:
– Hình phạt chính bao gồm: (1) Phạt tiền; (2) Đình chỉ hoạt động có thời hạn; (3) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn (khoản 1 Điều 33).
– Hình phạt bổ sung bao gồm: (1) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; (2) Cấm huy động vốn; (3) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính (khoản 2 Điều 33).
Ngoài ra, Chương XI “Những quy định đối với PNTM phạm tội” đã quy định đầy đủ về điều kiện, phạm vi chịu TNHS; nội dung cụ thể về các hình phạt và biện pháp tư pháp cụ thể áp dụng đối với PNTM phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS; việc quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt, miễn hình phạt và xóa án tích đối với PNTM bị kết án (các điều 74-89). Đây là những căn cứ quan trọng để cùng với đó, tại Phần các tội phạm BLHS có quy định 33 tội danh cụ thể mà PNTM phải chịu TNHS , qua đó, bảo đảm tính hệ thống trong toàn bộ Phần những quy định chung và Phần các tội phạm của BLHS năm 2015.
Như vậy, có thể khẳng định, những quy định này không chỉ bảo đảm sự thống nhất chung của hệ thống pháp luật nước ta, mà còn nhằm thực thi các cam kết, nghĩa vụ của nước ta trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, qua đó, bảo đảm công bằng, minh bạch, bình đẳng giữa PNTM Việt Nam ở nước ngoài và PNTM nước ngoài tại nước ta.
2. Khái quát quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Cùng với việc ban hành BLHS năm 2015 với tư cách là luật nội dung, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 với tư cách là luật hình thức cũng đã quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự (TTHS), trong đó có quy định về thủ tục truy cứu TNHS đối với pháp nhân (nhưng không ghi rõ là PNTM – TG).
Do đó, việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân (ở đây được hiểu là PNTM) là một vấn đề hoàn toàn mới được đặt ra, đặc biệt là vấn đề thủ tục tố tụng truy cứu TNHS đối với đối tượng này nhằm đáp ứng kịp thời với những thay đổi của BLHS năm 2015 . Ở đây, quy định về TNHS của PNTM trong BLHS làm tiền đề để quy định thủ tục tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân trong BLTTHS. Vì vậy, quá trình giải quyết vụ án hình sự cần làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân bị buộc tội, đồng thời làm sáng tỏ các tình tiết, hành vi phạm tội của cá nhân hoặc pháp nhân (nếu có), trường hợp pháp nhân ra quyết định hoặc chỉ đạo cá nhân thực hiện hành vi phạm tội thì cần xử lý hình sự cả cá nhân và pháp nhân về tội mà họ đã thực hiện để giải quyết, xử lý tội phạm toàn diện, minh bạch, công minh, đúng pháp luật…
2.1. Khái niệm thủ tục tố tụng truy cứu TNHS đối với pháp nhân
Lần đầu tiên, BLTTHS năm 2015 đã quy định bị can, bị cáo là người hoặc pháp nhân. Theo đó, bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này (khoản 1 Điều 60). Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này (khoản 1 Điều 61).
Ngoài ra, điểm mới quan trọng và lớn nhất được quy định trong BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003 là các nhà lập pháp đã xây dựng một chương riêng là Chương XXIX “Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân” (các Điều 431-446) với nhiều quy định về thủ tục, việc tham gia tố tụng, biện pháp cưỡng chế, những vấn đề cần phải chứng minh, cũng như trình tự điều tra, truy tố, xét xử… đối với đối tượng này. Trong đó, phạm vi áp dụng được xác định tại Điều 431 Bộ luật này, có nghĩa thủ tục tố tụng được tiến hành theo quy định tại Chương XXIX và những quy định khác trong BLTTHS không trái với quy định của Chương này.
Do đó, dưới góc độ khoa học luật TTHS, thủ tục tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân là trình tự thực hiện các quy định của BLTTHS khi tiến hành giải quyết vụ án liên quan đến bị can, bị cáo là PNTM và áp dụng những quy định khác có liên quan, nhằm bảo đảm xử lý đúng đắn vụ án, cũng như góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
2.2. Việc tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân
Người đại diện theo pháp luật của PNTM có mối quan hệ rất chặt chẽ đối với pháp nhân, họ là người nhân danh pháp nhân tham gia các hoạt động. Do đó, khi BLTTHS năm 2015 quy định pháp nhân với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS thì mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu TNHS được thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hoặc không thể tham gia tố tụng được thì pháp nhân phải cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng. Trường hợp pháp nhân thay đổi người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng… Khi tham gia vào hoạt động tố tụng người đại diện theo pháp luật của pháp nhân được Nhà nước quy định cho họ những quyền và nghĩa vụ nhất định được quy định tại Điều 435 BLTTHS năm 2015.
2.3. Biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân bị buộc tội
Để ngăn chặn việc pháp nhân tiếp tục phạm tội, cũng như hạn chế các hậu qủa do hành vi phạm tội của pháp nhân gây ra, qua đó, bảo đảm thi hành án liên quan đến việc bồi thường thiệt hại hoặc phạt tiền, BLTTHS năm 2015 quy định Cơ quan Điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau đây đối với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tại Điều 436 Bộ luật này bao gồm:
– Kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân;
– Phong tỏa tài khoản của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân;
– Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân;
– Buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án.
Lưu ý, quy định về thời hạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế quy định tại khoản 1 Điều này không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử.
2.4. Những vấn đề cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân bị buộc tội
Trong vụ án hình sự liên quan đến PNTM bị buộc tội, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh, xác định rõ các tình tiết đặc trưng gắn liền với pháp nhân tại Điều 441 BLTTHS năm 2015 bao gồm:
– Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội thuộc TNHS của pháp nhân theo quy định của BLHS.
– Lỗi của pháp nhân, lỗi của cá nhân là thành viên của pháp nhân.
– Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của pháp nhân gây ra.
– Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS và tình tiết khác liên quan đến miễn hình phạt.
– Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Trong đó, việc chứng minh vấn đề lỗi của pháp nhân là một vấn đề rất quan trọng trong vụ án mà pháp nhân thực hiện tội phạm.
2.5. Thẩm quyền và thủ tục xét xử đối với pháp nhân
Điều 444 BLTTHS năm 2015 quy định, Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự về các tội phạm do pháp nhân thực hiện là Tòa án nơi pháp nhân thực hiện tội phạm. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi pháp nhân đó có trụ sở chính hoặc nơi có chi nhánh của pháp nhân đó thực hiện tội phạm. Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với pháp nhân phạm tội được thực hiện theo thủ tục chung quy định tại Phần thứ tư và Phần thứ sáu của Bộ luật này. Phiên tòa xét xử đối với pháp nhân phải có mặt người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp; có mặt bị hại hoặc người đại diện của bị hại…
Như vậy, thủ tục tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân chính là các trình tự thực hiện các quy định của BLTTHS khi tiến hành giải quyết vụ án liên quan đến bị can, bị cáo là PNTM, cũng như việc áp dụng những quy định khác có liên quan, qua đó, bảo đảm xử lý đúng đắn vụ án, TNHS của pháp nhân và TNHS của cá nhân, cũng như góp phần đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và đề ra các biện pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
3. Một số vấn đề đặt ra khi thi hành các quy định của BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 liên quan đến TNHS và thủ tục tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân
Như vậy, từ việc nghiên cứu quy định của BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 liên quan đến TNHS và thủ tục tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân (thương mại) với tư cách là hai đạo luật lớn quy định về luật nội dung và luật hình thức (luật thủ tục), chúng tôi đưa ra một số vấn đề sau để các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn hoặc sửa đổi, bổ sung khi thi hành hai đạo luật này (đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) mà mục 3.1 và mục 3.2 sẽ đề cập dưới đây.
3.1. Một số vấn đề đặt ra khi thi hành quy định của BLHS năm 2015 liên quan đến TNHS của PNTM phạm tội
Khi thi hành quy định của BLHS năm 2015 liên quan đến TNHS của PNTM phạm tội có một số vấn đề đặt ra và hướng giải quyết như sau:
– Khoản 2 Điều 2 BLHS năm 2015 quy định: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự” cần sửa lại thành “phạm một hay nhiều tội đã được quy định tại Điều 76 và đáp ứng các điều kiện theo Điều 75 Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự” cho thống nhất với Điều 75 về “Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại” và chính xác với thực tiễn vì có trường hợp PNTM phạm một tội, có trường hợp phạm nhiều tội, một hay nhiều tội đều phải bị xử lý TNHS và để truy cứu thì cần đáp ứng các điều kiện chịu TNHS (ví dụ: PNTM phạm một tội tại Điều 76 nhưng tội phạm đó lại hết thời hiệu truy cứu TNHS, rõ ràng pháp nhân đó lại không phải chịu TNHS).
– Khoản 2 Điều 9 BLHS năm 2015 quy định về phân loại tội phạm đối với pháp nhân: “Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này”. Điều này có nghĩa, tội phạm được phân loại thành các tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (theo khoản 1 – căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt), tuy nhiên, chưa có quy định nào “quy đổi” tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà PNTM thực hiện tương ứng với mức cao nhất của khung hình phạt mà PNTM phải chịu trong BLHS. Hơn nữa, hình phạt chính đối với PNTM phạm tội chỉ có hình phạt tiền là có thể quy đổi, nhưng chỉ tương ứng với tội phạm ít nghiêm trọng. Do đó, cần có hướng dẫn cụ thể hơn về nội dung này, để xác định rõ trường hợp nào là tội phạm do PNTM thực hiện là các tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, trong đó, nên căn cứ với loại tội mà người phạm tội đã thực hiện.
– Điều 10 về “Cố ý phạm tội”, Điều 11 về “Vô ý phạm tội”, Điều 17 về “Đồng phạm”… của BLHS năm 2015 đều quy định cho người phạm tội mà không quy định cho PNTM phạm tội. Trong khi đó, Điều 8 về “Khái niệm tội phạm” lại nêu: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý…”; Điều 85 về “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại” lại có đề cập đến trường hợp PNTM “câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội” (điểm a khoản 1 Điều 85)… Do đó, đề nghị các nhà làm luật nghiên cứu, bổ sung điều luật về lỗi cố ý và vô ý đối với PNTM phạm tội và vấn đề đồng phạm của PNTM phạm tội trong BLHS năm 2015. Hơn nữa, trong vụ án hình sự liên quan đến PNTM bị buộc tội, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh, xác định rõ các tình tiết đặc trưng gắn liền với pháp nhân tại Điều 441 BLTTHS năm 2015, trong đó có việc chứng minh một vấn đề quan trọng – “Lỗi của pháp nhân, lỗi của cá nhân là thành viên của pháp nhân” (khoản 2).
– Khoản 1 Điều 75 BLHS năm 2015 đã đưa ra các điều kiện để có thể truy cứu TNHS đối với PNTM: (1) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM; (2) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của PNTM; (3) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của PNTM và; (4) Chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS. Tuy nhiên, do đây là bốn điều kiện độc lập và phải có đủ các điều kiện này mới truy cứu TNHS của PNTM. Song, điều kiện thứ nhất (hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM) và điều kiện thứ ba (hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của PNTM) dường như chưa độc lập với nhau vì thực tế, nếu hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM thì không thể lại có trường hợp không có sự chỉ đạo, điều hành, chấp thuận của PNTM và ngược lại, nếu đã có sự chỉ đạo, điều hành hay chấp thuận của PNTM thì chính là đã nhân danh pháp nhân rồi. Hơn nữa, pháp nhân không có tri giác để hành động được mà mọi hoạt động phải thông qua người đại diện của nó. Do đó, có thể ghép hai điều kiện này vào thành một điều kiện chung làm cơ sở cho việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân được công bằng và dễ chứng minh hơn về phương diện TTHS.
– Điều 78 BLHS năm 2015 quy định về hình phạt “Đình chỉ hoạt động có thời hạn” đối với PNTM phạm tội như sau: “Đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế” (khoản 1). Quy định này chưa thật sự chính xác vì nếu gây thiệt hại đến “tính mạng” (đoạn trước) mà hậu quả gây ra lại “có khả năng khắc phục trên thực tế” (đoạn sau) là chưa đúng vì gây thiệt hại đến tính mạng rõ ràng không thể khắc phục được. Vì vậy, cần sửa lại cho chính xác theo hướng “một số hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế…”.
– Danh tiếng, uy tín, vị thế đối với PNTM là vô cùng quan trọng, nó là tài sản tinh thần vô giá được xây dựng qua nhiều năm tháng, sự đánh giá của cộng đồng, xã hội… Chính vì vậy, kinh nghiệm trong pháp luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới như: Cộng hòa Pháp, Hà Lan, Bỉ… đều quy định hình phạt “Niêm yết bản án, quyết định đã được Tòa án tuyên hoặc thông báo bản án, quyết định đó trên các phương tiện nghe nhìn” để răn đe, cảnh tỉnh đối với các pháp nhân khác và bản thân pháp nhân đã phạm tội. Trong khi đó, BLHS năm 2015 chưa (không) quy định hình phạt này như kinh nghiệm của một số nước. Do đó, chúng tôi cho rằng, trong lần sửa đổi, bổ sung sắp tới các nhà làm luật nước ta cân nhắc quy định bổ sung hình phạt này để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm do PNTM thực hiện, để các pháp nhân khác thấy rằng, “danh tiếng thì có rất lâu nhưng tai tiếng thì rất nhanh”, từ đó không có ý định phạm tội.
3.2. Một số vấn đề đặt ra khi thi hành quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến thủ tục tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân
Khi thi hành quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến thủ tục tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân có một số vấn đề đặt ra và hướng giải quyết như sau:
– Điều 8 BLHS năm 2015 về “Khái niệm tội phạm” đã xác định PNTM là loại pháp nhân duy nhất có tư cách chủ thể của tội phạm. Cơ sở của TNHS đối với pháp nhân được quy định tại Điều 2 Bộ luật này cũng khẳng định: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Tuy nhiên, Chương XXIX BLTTHS năm 2015 lại có tên là “Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân” và toàn bộ quy định trong Chương này đều sử dụng thuật ngữ “pháp nhân” mà không phân biệt hay giới hạn loại pháp nhân nào trong khi thủ tục tố tụng này chỉ có thể áp dụng đối với PNTM bị truy cứu TNHS. Theo đó, có thể nói rằng, quy định về thủ tục tố tụng truy cứu TNHS đối với pháp nhân của BLTTHS hiện nay chưa thống nhất với quy định về pháp nhân phạm tội trong BLHS. Tuy nhiên, nhiệm vụ chứng minh tính chất “thương mại” trong “nhân thân” của pháp nhân bị truy cứu không được đề cập đến trong bất kỳ quy định nào của BLTTHS năm 2015. Do đó, BLTTHS năm 2015 cần phải đổi tên Chương XXIX và sử dụng các thuật ngữ trong đó thống nhất là “PNTM” (hoặc cũng có thể sửa đổi trong Điều 4 BLTTHS năm 2015 khi giải thích thuật ngữ – pháp nhân trong Bộ luật này được hiểu là PNTM) .
– Hiện nay, trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố hoặc xét xử sẽ xảy ra một số khả năng cần được dự báo, đó là các trường hợp xóa sổ hoặc thay đổi pháp nhân (điều này khác với cá nhân là đối với pháp nhân có thể có giải thể, phá sản hoặc hợp nhất, chia, tách, sáp nhận pháp nhân) , do đó, các cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn thi hành quy định về việc tham gia tố tụng của người đại diện pháp nhân và việc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án cũng như xác định bị can, bị cáo là pháp nhân trong vụ án để áp dụng thủ tục giải quyết, đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án thì pháp nhân không được chia, tách, sáp nhập để xử lý được chính xác. Ngoài ra, việc xác định rõ vai trò và quy chế pháp lý của người đại diện trong thủ tục truy cứu TNHS PNTM cũng cần được xác định rõ. Rõ ràng, trong quá trình truy cứu TNHS đối với một pháp nhân, cá nhân – người đại diện của chủ thể này tham gia tố tụng với tư cách là người thay mặt pháp nhân chứ không phải vì người này đã tham gia vào hành vi phạm tội . Chúng tôi tán thành với quan điểm cho rằng quy chế pháp lý (vai trò, quyền và nghĩa vụ) của người đại diện theo pháp luật của PNTM quy định tại khoản 2 Điều 435 BLTTHS năm 2015 về cơ bản giống với vai trò của người làm chứng trong vụ án hình sự .
– Khoản 1 Điều 436 BLTTHS năm 2015 về “Biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân” quy định: “Cơ quan Điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau đây đối với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử:
a) Kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân;
b) Phong tỏa tài khoản của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân;
c) Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân;
d) Buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án”.
Sau đó, riêng hai biện pháp tại điểm “a” và “b” (đã nêu) quy định tại khoản 4 Điều 437 về “Kê biên tài sản” và khoản 5 Điều 438 về “Phong tỏa tài khoản” của BLTTHS năm 2015 có dẫn chiếu thẩm quyền, thủ tục sang Điều 128 về biện pháp “Kê biên tài sản” và Điều 129 về biện pháp “Phong tỏa tài khoản” (còn hai biện pháp sau (điểm “c” và “d” lại được quy định rõ tại khoản 2 Điều 439). Dẫn chiếu tiếp hai Điều luật này lại tiếp tục dẫn chiếu thẩm quyền áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật này và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, nhưng không có quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế là “Kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân” và “Phong tỏa tài khoản của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân” cho cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà khoản 1 Điều 436 BLTTHS năm 2015 đã quy định. Do đó, các nhà làm luật cần quy định thống nhất vấn đề này theo hướng – hoặc bỏ đi thẩm quyền của cơ quan này (cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) hoặc đã quy định thì bổ sung cho đầy đủ, thống nhất trong các điều luật trên và điều luật dẫn chiếu .
– Khoản 1 Điều 439 BLTTHS năm 2015 quy định: “Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân chỉ áp dụng khi có căn cứ xác định hành vi phạm tội của pháp nhân gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của con người, môi trường hoặc trật tự, an toàn xã hội…
Thời hạn tạm đình chỉ hoạt động của pháp nhân không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn tạm đình chỉ đối với pháp nhân bị kết án không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm pháp nhân chấp hành án”. Do đó, theo như quy định trên thì “thời hạn tạm đình chỉ hoạt động của pháp nhân không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của Bộ luật này”. Rõ ràng, “quy định này không khác gì hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn, thậm chí, nếu tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng đều áp dụng thì còn nặng hơn cả hình phạt chính và thực sự làm khó cho các pháp nhân, bởi hoạt động của các pháp nhân thương mại luôn đặt lợi ích kinh tế làm đầu” . Khắc phục vấn đề này các cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn theo hướng là tùy theo hành vi phạm tội của pháp nhân gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của con người, môi trường hoặc trật tự, an toàn xã hội để cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định tạm đình chỉ hoạt động của PNTM cho phù hợp . Bởi lẽ, việc phải ngừng hoạt động trong lĩnh vực nhất định ảnh hưởng không nhỏ không chỉ đến chính pháp nhân, mà còn ảnh hưởng liên đới đối với người lao động làm việc trong pháp nhân ấy.
– Điều 444 BLTTHS năm 2015 quy định, Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự về các tội phạm do pháp nhân thực hiện là Tòa án nơi pháp nhân thực hiện tội phạm. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi pháp nhân đó có trụ sở chính hoặc nơi có chi nhánh của pháp nhân đó thực hiện tội phạm. Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với pháp nhân phạm tội được thực hiện theo thủ tục chung quy định tại Phần thứ tư và Phần thứ sáu của Bộ luật này. Phiên tòa xét xử đối với pháp nhân phải có mặt người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp; có mặt bị hại hoặc người đại diện của bị hại. Nghiên cứu về vấn đề này, chúng tôi tán thành với quan điểm trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp, BLTTHS Việt Nam cần mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo lãnh thổ đối với pháp nhân. Nghĩa là trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm hoặc tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với cá nhân và pháp nhân trong cùng vụ án thuộc về Tòa án nơi cá nhân cư trú hoặc bị bắt. Mặt khác, BLTTHS năm 2015 cũng cần bổ sung quy định nhập vụ án để điều tra, truy tố đối với cá nhân và pháp nhân trong cùng vụ án .
– Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự do PNTM thực hiện tội phạm đòi hỏi các cơ quan, người tiến hành tố tụng cần làm sáng tỏ các quan hệ pháp luật hình sự và quan hệ pháp luật TTHS, để các cơ quan tiến hành tố tụng xác định chính xác đối tượng chứng minh trong vụ án có tội phạm do pháp nhân thực hiện, từ đó giải quyết vụ án được khách quan, chính xác và đúng pháp luật vấn đề tội phạm và TNHS của PNTM . Trên cơ sở này, từ đó xác định rõ có dấu hiệu tội phạm hay không; chủ thể của tội phạm là pháp nhân có đúng là pháp nhân thực hiện tội phạm hay không; cũng như vấn đề TNHS của cá nhân của các thành viên pháp nhân và pháp nhân trong vụ án đó thế nào.. .
Tóm lại, BLHS và BLTTHS năm 2015 đã có nhiều thay đổi lớn trong chính sách hình sự của Nhà nước khi quy định vấn đề TNHS và thủ tục tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, để bảo đảm thi hành đúng và có căn cứ đối với quy định của hai đạo luật này đòi hỏi các nhà làm luật cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát, chỉnh sửa, bổ sung những tồn tại, vướng mắc (nếu có) trên phương diện lập pháp hình sự và TTHS, kết hợp với thực tiễn áp dụng trong thời gian tới để hoàn thiện, qua đó, mới bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người và PNTM phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, áp dụng thủ tục tố tụng truy cứu chính xác, đúng pháp luật./.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Khánh thành tượng đài “Bác Hồ với chiến sĩ biên phòng” tại cửa khẩu quốc tế Cầu Treo
-
Sắp diễn ra Tuần lễ Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu 2024
-
Khai mạc Festival “Về miền ví, giặm – Kết nối tinh hoa di sản”
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Hội thảo khoa học "200 ngày tập kết ra Bắc tại Cà Mau - tầm nhìn chiến lược và giá trị lịch sử"
Bình luận