Về thời điểm ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 có hiệu thi hành từ ngày 1/7/2016. Trong thực tiễn xét xử, việc triển khai thi hành Bộ luật này đã nảy sinh những vướng mắc, bất cập, trong đó có việc ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vào thời điểm nào cho phù hợp? Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin luận bàn về thời điểm ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và đưa ra kiến nghị, đề xuất nhằm bảo đảm áp dụng thống nhất quy định của BLTTDS năm 2015.

1.Quy định của BLTTDS năm 2015 về thời điểm ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

Tại khoản 3 Điều 203 BLTTDS năm 2015 quy định:

“3. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tùy từng trường hợp, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây:

  1. a) Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;
  2. b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
  3. c) Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
  4. d) Đưa vụ án ra xét xử.”

Như vậy, với quy định nêu trên thì Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 203[1] BLTTDS năm 2015 nếu có một trong các căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại khoản 1 Điều 214[2] BLTTDS năm 2015.

  1. 2.Thực trạng việc áp dụng các quy định của pháp luật trong thực tiễn

Hiện nay, việc áp dụng quy định của BLTTDS năm 2015 về vấn đề này rất khác nhau, bởi lẽ, đang tồn tại 2 quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, khoản 3 Điều 203 BLTTDS năm 2015 quy định trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ. Như vậy, nếu có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 214 năm 2015, Thẩm phán phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án mà không phải chờ đến khi gần hết thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 mới ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

Đồng thời những người theo quan điểm này cũng lập luận, theo quy định tại Điều 215[3] BLTTDS năm 2015 về hậu quả của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì Tòa án không xóa tên vụ án dân sự bị tạm đình chỉ giải quyết trong sổ thụ lý; vụ án bị tạm đình chỉ giải quyết không được tính số liệu đã giải quyết như trước đây và trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải quyết vụ án, có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm khắc phục trong thời gian ngắn nhất những lý do dẫn tới vụ án bị tạm đình chỉ để kịp thời đưa vụ án ra giải quyết.

Những người theo quan điểm này, khi giải quyết vụ án, có căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 214 BLTTDS năm 2015 là ra ngay quyết định tạm đình chỉ, tạm xếp hồ sơ vào một chỗ để giải quyết vụ việc khác cho tới khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn, sau khi ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án mới tiến hành thực hiện các thủ tục tố tụng, xây dựng hồ sơ vụ án, giải quyết vụ án.

Quan điểm thứ hai cho rằng, Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có căn cứ quy định tại Điều 214 BLTTDS năm 2015 và khi thời hạn chuẩn bị xét xử gần hết. Bởi lẽ, trong thực tiễn xét xử, nhiều vụ án vừa thụ lý thì phát sinh căn cứ tạm đình chỉ, Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ ngay dẫn đến án tồn đọng nhiều, sau khi ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án mới tiếp tục tiến hành các thủ tục tố tụng khác làm cho thời gian giải quyết dứt điểm vụ án bị kéo dài, gây bức xúc cho đương sự.

  1. 3.Kiến nghị, đề xuất

Từ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn về thời điểm ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nêu trên, vấn đề đặt ra là Tòa án nên ra ngay quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hay tiếp tục các thủ tục tố tụng khác cho tới khi gần hết thời hạn chuẩn bị xét xử mới ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án? Có thể thấy, đây là vấn đề còn chưa có sự rõ ràng, thống nhất nên trước mắt, rất cần có hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để bảo đảm áp dụng thống nhất quy định của BLTTDS năm 2015 trong hệ thống Tòa án; về lâu dài, khi có điều kiện cần phải có sự sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTDS năm 2015 một cách kịp thời.

Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng, cả hai quan điểm nêu trên đều có những yếu tố hợp lý nhất định. Trước tiên, cần phải khẳng định rằng, theo quy định tại khoản 3 Điều 203 BLTTDS năm 2015 thì Thẩm phán phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án trong thời hạn xét xử. Tuy nhiên, cần phải xem xét thời điểm nào ra quyết định cho phù hợp, vì khi lý do tạm đình chỉ không còn thì Thẩm phán ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án và thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại từ đầu.

Như vậy:

– Với cách giải quyết theo quan điểm thứ nhất thì rất thuận lợi cho Tòa án nhưng sau khi ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án, Tòa án phải thực hiện nhiều thủ tục tố tụng, do đó, thời gian kết thúc vụ án sẽ dài, bất lợi cho đương sự;

– Với cách giải quyết theo quan điểm thứ hai, sẽ thuận lợi cho đương sự hơn vì trước khi ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án thì các thủ tục tố tụng khác đã được thực hiện, do đó, thời gian từ khi ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án đến khi kết thúc vụ án sẽ ngắn hơn nhiều.

Từ những phân tích ở trên, để tránh tình trạng việc giải quyết vụ án kéo dài, đồng thời, bảo đảm sự linh hoạt cho Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án, theo tác giả, về thời điểm ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cần hướng dẫn cụ thể như sau: Sau khi thụ lý vụ án, trong thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu phát sinh một trong các căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định tại Điều 214 BLTTDS, thì trước khi ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán phải thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 203[4] của BLTTDS; trường hợp vì lý do tạm đình chỉ mà không thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 2 Điều 203 của BLTTDS thì Thẩm phán ra ngay quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

[1] Khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 quy định:

1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:

  1. a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
  2. b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này.

Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

[2] Khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015 quy định:

1. Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi có một trong các căn cứ sau đây:

  1. a) Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó;
  2. b) Đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật;
  3. c) Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế;
  4. d) Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án;

đ) Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án;

  1. e) Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ;
  2. g) Theo quy định tại Điều 41 của Luật phá sản;
  3. h) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

[3] Điều 215 BLTTDS năm 2015 quy định:

Điều 215. Hậu quả của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

  1. Tòa án không xóa tên vụ án dân sự bị tạm đình chỉ giải quyết trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó.
  2. Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được gửi tại kho bạc nhà nước và được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.
  3. Trường hợp tạm đình chỉ theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 214 của Bộ luật này thì trước khi tạm đình chỉ, Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án phải có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định tại Điều 221 của Bộ luật này.

Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền phải có văn bản trả lời. Hết thời hạn này mà cơ quan có thẩm quyền không có văn bản trả lời thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

  1. Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải quyết vụ án.

Sau khi có quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại khoản 1 Điều 214 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm khắc phục trong thời gian ngắn nhất những lý do dẫn tới vụ án bị tạm đình chỉ để kịp thời đưa vụ án ra giải quyết.

  1. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

 

[4] Khoản 2 Điều 203 BLTTDS quy định:

“2. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

  1. a) Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 của Bộ luật này;
  2. b) Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác;
  3. c) Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng;
  4. d) Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án;

đ) Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này;

  1. e) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
  2. g) Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn;
  3. h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật này.”

 

 

NGỌC TRÂM