Đại diện gia đình A và K tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Sau khi nghiên cứu bài viết Xác định tư cách tham gia tố tụng thế nào cho đúng?, tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất, cần xác định đại diện của hai gia đình A và K là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Việc xác định tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng các quy định của BLHS, BLTTHS và các quy định pháp luật có liên quan; việc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng sẽ dẫn đến việc giải quyết vụ án hình sự không được toàn diện, triệt để, ảnh hưởng quyền lợi của người tham gia tố tụng. Chẳng hạn, khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, nếu một người được xác định là người bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự… thì họ được nhận giấy triệu tập và quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng nếu xác định họ là người làm chứng thì họ chỉ nhận được giấy triệu tập. Một người được xác định là người làm chứng trong khi đáng nhẽ họ phải được xác định là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì họ sẽ bị hạn chế một số quyền, trong đó có quyền tranh luận tại phiên tòa, quyền kháng cáo theo  quy định tại điểm d, g khoản 2 Điều 65 BLTTHS.

Dó đó, để xác định tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, ta thường dựa trên cơ sở khách thể bị xâm phạm. Ví dụ: tội “Cố ý gây thương tích”, khách thể bị xâm phạm là quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người. Khách thể của tội “Hủy hoại tài sản” là quyền sở hữu (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) về tài sản hợp pháp của người khác. Khách thể của tội “giết người” quyền đươc tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người.

Đối với vụ án nói trên, trước hết chúng ta phân tích về “Người có quyền lợi, nghĩa vụ”. “Người có quyền lợi” là người được hưởng hoặc bị thiệt hại lợi ích nào đó, lợi ích ở đây có thể là vật chất hoặc tinh thần. Dưới góc độ pháp lý có thể hiểu người có quyền lợi liên quan đến vụ án là người có quyền lợi hợp pháp của mình liên quan đến vụ án và cơ quan tiến hành tố tụng đưa họ vào tham gia tố tụng để họ thực hiện quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình (Quyền lợi ở đây là lợi ích về mặt vật chất).  Như vậy, “Người có nghĩa vụ” là người mà theo đạo đức hoặc pháp luật họ phải bắt buộc thực hiện một công việc, nghĩa vụ nào đó mà họ nếu từ chối sẽ bị xã hội lên án hay bị pháp luật cưỡng chế thực hiện. Dưới góc độ pháp lý, chúng ta có thể hiểu “Nghĩa vụ” trong vụ án hình sự là một sự bắt buộc mà người đó phải thực hiện theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng.

“Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” là người không tham gia thực hiện tội phạm hoặc có tham gia, nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và Tòa án phải xử lý quyền lợi, tài sản của họ vì liên quan đến tội phạm. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thường là chủ sở hữu tài sản, nhưng tài sản đó lại có trong tay người phạm tội; người được người phạm tội cho tài sản, mà tài sản đó có được do hoạt động phạm tội. Do đó, theo tôi hiểu chế định “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” theo Điều 65 BLTTHS thường được áp dụng trong những vụ án xâm phạm sở hữu. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể là “Người có quyền lợi liên quan đến vụ án” hoặc có thể là “Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án” hoặc có thể vừa là “Người có quyền lợi, …” vừa có “… nghĩa vụ liên quan đến vụ án”. Khoản 1 Điều 65 quy định “Người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến án hình sự.”

Còn về tư cách tham gia tố tụng “Người làm chứng”, tại khoản 1 Điều 66 BLTTHS quy định “Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng”.

Trong nội dung vụ án, A  và K đã có hành vi đánh anh Đinh Văn E, hậu quả anh E tử vong, A và K bị Công an bắt tạm giam và khởi tố về hành vi “Giết người” theo quy định tại Điều 123 BLHS. Hai gia đình A và K đã gặp gia đình anh E thỏa thuận bồi thường thiệt hại và được gia đình E đồng ý với số tiền 300.000.000 đồng và đề nghị Tòa án ghi nhận, trước khi mở phiên tòa thì đã bồi thường xong toàn bộ. Như vậy, trong vụ án này A và K có hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của anh E mà được pháp luật bảo vệ (khách thể bị xâm phạm), do đó A và K phải có trách nhiệm khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại cho anh E.

Ở vụ án này, gia đình A và K đã đưa tiền cho bị can A và K để khắc phục hậu quả. Mà trong trường hợp vụ án này, bị can A và K là người có trách nhiệm bồi thường, khắc phục hậu quả mà số tiền bồi thường lại là của gia đình A và K. Khi giải quyết vụ án sẽ đề cập đến số tiền của gia đình A, K đã bỏ ra bồi thường. Vì vậy, phần quyết định giải quyết sẽ liên quan đến số tiền đã bỏ ra bồi thường. Do đó, cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định đại diện gia đình của A và K là người có quyền lợi liên quan. Chính vì, gia đình A và K đã bỏ tiền bồi thường cho bị hại (anh E) (mai táng, cứu chữa cho bị hại) thì cần xác định họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án để đảm bảo quyền lợi của họ sau này, còn việc gia đình A và K có yêu cầu A và K hoàn trả lại số tiền bồi thường hay không thì phụ thuộc vào ý chí của họ.

Trên đây là quan điểm của tác giả trong việc xác định tư các tham gia tố tụng trong vụ án, rất mong nhận được ý kiến trao đổi từ bạn đọc./.

Đại diện Bộ Công Thương và người có nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa xét xử ông Vũ Huy Hoàng. Ảnh: TTXVN

VŨ VĂN HOÀNG (Tòa án quân sự Quân chủng Hải quân) –