Hình phạt nào cho bị cáo hiếp dâm?

Áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS đối với Bùi Văn M phạm tội “Hiếp dâm” người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được quy định tại khoản 2 Điều 141 BLHS như thế nào? Tình huống này hiện còn nhiều quan điểm khác nhau.

Khoảng 21 giờ ngày 11/01/2020 Bùi Văn M (sinh năm 1985) đi qua cửa hàng bán điện thoại số 58 Nguyễn Bình, phường N, quận CR, thành phố Cần Thơ thấy chị Nguyễn Thị T (sinh 20/10/2003) là con của anh Nguyễn Văn A đang trông coi cửa hàng. M vào hỏi mua điện thoại. Quá trình hỏi mua do thấy đường vắng ít người qua lại, M nảy sinh ý định hiếp dâm chị T.

Bất ngờ, T bị M bắt trói lại, sau đó M thực hiện động tác đóng cửa cuốn phía trước như mọi ngày chị T làm nên không ai để ý. Đóng cửa xong, M thực hiện hai lần hành vi giao cấu với chị T. Sau đó, T vòng ra cửa sau đi mất, vẫn trói chị T và chị T nằm dưới đất.

Đến khoảng 23 giờ, chị T tháo được dây trói ra, điện báo cho bố và đi trình báo công an. Bằng các biện pháp nghiệp vụ công an nhanh chóng bắt được M.

Quá trình điều tra, truy tố xác định M phạm tội “Hiếp dâm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 141 BLHS với ba tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 BLHS (thành khẩn khai báo, đã tự nguyện bồi thường cho bị hại, là con của liệt sĩ), nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự. Tình huống trên, Hội đồng xét xử (HĐXX) có 03 quan điểm về quyết định hình phạt đối với bị cáo M như sau:

Quan điểm thứ nhất: Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội, HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 141 BLHS để quyết định hình phạt đối với bị cáo. Vì Bùi Văn M phạm tội đối với bị hại từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì không áp dụng Điều 54 BLHS. Đây là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến sự phát triển toàn diện về tâm sinh lý của bị hại nên phải có quyết định hình phạt thật nghiêm để giáo dục người phạm tội và răn đe, phòng ngừa người khác phạm tội.

Quan điểm thứ hai: Do Bùi Văn M có 03 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 BLHS, nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, nên HĐXX có căn cứ áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS, tuyên bị cáo với khung hình phạt nhẹ hơn được quy định tại khoản 1 Điều 141 BLHS.

Khoản 1 Điều 54 quy định: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này”. Các khung hình phạt quy định tại Điều 54 như sau: khoản 1 là từ 02 đến 07 năm; khoản 2 từ 07 đến 15 năm; khoản 3 từ 12 đến 20 năm hoặc tù chung thân, khoản 4 từ 05 năm đến 10 năm. Do vậy Bùi Văn M bị truy tố tại khoản 2 nên khi áp dụng khoản 1 Điều 54 phải áp dụng khoản 1 vì đây là khung liền kề nhẹ hơn. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54, căn cứ vào khoản 1 Điều 141 BLHS để lượng hình là phù hợp với quy định của pháp luật.

Quan điểm thứ ba: Do Bùi Văn M phạm tội “Hiếp dâm” đối với chị T có cấu thành cơ bản được quy định tại khoản 4 Điều 141 BLHS, phạm tội đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Tuy nhiên do bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi hiếp dâm chị T nên phải chịu tình tiết định khung tại khoản 2 Điều 141 BLHS. Quá trình xem xét toàn diện tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, nhân thân, tiền án tiền sự nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS đối với bị cáo M nên căn cứ vào khoản 4 Điều 141 BLHS để quyết định hình phạt đối với M.

Vì tội “Hiếp dâm” Điều 141 BLHS quy định 02 đối tượng tác động khác nhau là khoản 1 đối với người đã thành niên, và khoản 4 đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Khi bị cáo phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, có tình tiết định khung tại khoản 2 Điều này thì có thể áp dụng khoản 1 Điều 54, HĐXX phải xác định khoản 4 Điều 141 BLHS, vì đây là cấu thành cơ bản đối với đối tượng tác động là người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Tôi đồng tình với quan điểm này.

Trên đây là nội dung và quan điểm về tình huống trên. Để áp dụng thống nhất quy định tại Điều 54 BLHS đối với tội “Hiếp dâm” rất mong nhận được sự trao đổi từ đồng nghiệp và bạn đọc.

 

TAND quận Cái Răng, Cần Thơ xét xử vụ án hình sự - Ảnh: Phan Vũ Linh

TRẦN HẢI PHONG (Tòa án quân sự khu vực Quân khu 7)