Nguyễn Duy T phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay tham ô tài sản?
BLHS năm 2015 quy định về hai tội danh lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) và tội tham ô tài sản (Điều 353) về đặc điểm định tội tương đối giống nhau, chỉ khác nhau ở chủ thể tội phạm. Vụ việc dưới đây còn có quan điểm khác nhau về định tội.
Khoản 2 Điều 325 quy định người có chức vụ: Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.
Nội dung vụ án
Ngày 17/12/2013 Nguyễn Duy T ký hợp đồng dịch vụ (dịch vụ bán hàng điểm bán) với Công ty A có thời hạn 11 tháng có nội dung công việc Công ty A thuê T cung ứng dịch vụ bán hàng như sau: Đưa hàng cho điểm bán và quản lý tiền hàng; kiểm kê hàng hóa tại điểm bán; hướng dẫn dịch vụ, nghiệp vụ bán hàng cho điểm bán. Đến ngày 12/8/2017 Nguyễn Duy T được điều động về huyện C làm việc với nội dung công việc như trên. Trong thời gian làm việc từ ngày 17/12/2013 đến 17/12/2017 T luôn hoàn thành nội dung hợp đồng đã ký kết và không để dư nợ đến quá 10 giờ ngày hôm sau.
Ngày 18/12/2017 theo lời khai của Nguyễn Duy T, do cần tiền trả nợ và đánh bạc trên trang Web thua nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của Công ty A đã giao cho mình với tổng số tiền là 311.121.000 đồng hành vi cụ thể như sau:
Hành vi thứ nhất: Khi vào làm tại Công ty A thì T được cấp User Tnd_nan với định mức 80 triệu đồng một ngày bình thường và 160.000.000 đồng những ngày có chương trình khuyến mãi mục đích chuyển cho các điểm bán rồi thu tiền về chậm nhất 10 giờ ngày hôm sau phải nạp cho Công ty C. Ngày 18/12/2017 là ngày Công ty C có chương trình khuyến mãi, sau khi được cấp 160.000.000 đồng vào User Tnd_nan T đã chiếm đoạt bằng hình thức chuyển số tiền 144.000.000 đồng vào tài khoản của ông Nguyễn Duy H là bố đẻ của mình. Sau khi chiếm đoạt số tiền 144.000.000 đồng, T đã chuyển trả nợ cho chị V số tiền 21.000.000 đồng, anh Đ số tiền 2.000.000 đồng và số tiền có lại T khai sử dụng vào mục đích đánh bạc và chi tiêu cá nhân.
Hành vi thứ hai: Từ ngày 01/11/2017 đến ngày 18/12/2017 Nguyễn Duy T đã nhận từ thủ kho công ty A là anh Nguyễn Duy K với tổng số 2650 thẻ cào mệnh giá 20.000 đồng, 1400 thẻ cào mệnh giá 50.000 đồng, 430 thẻ cào mệnh giá 100.000 đồng, 20 thẻ cào mệnh giá 200.000 đồng và 9 sim trắng Mutil 4G, 40 sim kit tom, 7 máy điện thoại A130 Black Blue, 5 máy điện thoại V6216i Blue giao cho chị M, chị L, chị H, đều là các điểm bán tại huyện C và một số điểm bán khác mà T không nhớ rõ tên tuổi và địa chỉ thu về tổng số tiền là 167.121.000 đồng. Sau khi thu được số tiền 167.121.000 đồng T không nộp về cho công ty A mà chiếm đoạt số tiền trên để sử dụng vào mục đích mà T khai là để đánh bạc và chi tiêu cá nhân.
Biên bản xác định tổng công nợ giữa công ty A và T là 311.121.000 đồng. Kết luận định giá tài sản 7 máy điện thoại A130 Black Blue, 5 máy điện thoại V6216i Blue có giá trị tại thời điểm định giá là 3.736.000 đồng
Hai quan điểm khác nhau
Hiện có hai quan điểm khác nhau xác định tội danh về hành vi chiếm đoạt tài sản của Nguyễn Duy T.
Quan điểm thứ nhất: Hành vi của Nguyễn Duy T đã lợi dụng sơ hở của Công ty A dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt số tiền 311.121.000 đồng đã thỏa mãn 4 yếu tố cấu thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tài khoản 3 Điều 175 BLHS năm 2015. T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.
Quan điểm thứ hai: Nguyễn Duy T ký hợp đồng với Công ty A, đã lợi dụng quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ để chiếm đoạt số tiền 311.121.000 đồng, thỏa mãn 4 yếu tố cấu thành tội Tham ô tài sản quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 353 BLHS năm 2015.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất với luận điểm bảo vệ như sau: Hành vi cố ý dịch chuyển một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc cho người khác mà mình quan tâm bằng thủ đoạn lạm dụng tín nhiệm. Sau khi nhận được tài sản mới có ý định chiếm đoạt tài sản đó, đây là dấu hiệu đặc trưng của tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nguyễn Duy T ký hợp đồng cung ứng dịch vụ với Công ty A chức năng, nhiệm vụ là nhận tài sản của Công ty T giao cho các điểm bán rồi thu tiền về trước 10 giờ ngày hôm sau phải nộp cho công ty T thì mới được nhận thêm tài sản để đi giao. Như vậy sau khi giao tài sản của công ty T cho các điểm bán rồi thu tiền về, lúc này khi nhận được tiền T đã có ý định chiếm đoạt để trả nợ và đánh bạc trên mạng.
Về chủ thể của tội phạm này là bất cứ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên do chưa có hướng dẫn pháp luật cụ thể về chủ thể của hai loại tội phạm này dẫn đến việc còn nhiều vướng mắc khi xác định chủ thể của tội phạm.
Về đối tượng phạm tội là trên cơ sở hợp đồng ngay thẳng. Tài sản bị chiếm đoạt do người khác quản lí, đó có thể là tài sản của Nhà nước.
Công ty A cấp cho Nguyễn Duy T User để thực hiện các quá trình trên. Với User được cấp T chỉ có nhiệm vụ liên kết với các điểm bán và nộp tài sản của Công ty A cho điểm bán sau đó nộp tiền mặt mà các điểm bán trả và sau đó nộp tiền vào User về cho Công ty A (thực tế đây chỉ là việc rút ngắn một khâu trung gian và để đảm bảo cho quá trình nhân viên không phải cầm tiền mặt và những người ở xa nộp tiền về cho công ty A không mất quá nhiều thời gian và thủ tục hành chính). Đối với User được cấp T không có bất cứ quyền hạn nào về tài sản của Công ty A mà chỉ có nhiệm vụ như một người chuyển hàng và thu tiền.
Căn cứ công văn 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 vv thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự… Nguyễn Duy T thực hiện 2 lần thực hiện hành vi phạm tội và tổng trị giá tài sản của 2 lần phạm tội thỏa mãn dấu hiệu định khung tăng nặng vì vậy ngoài việc áp dụng khung hình phạt tương ứng với giá trị tài sản bị chiếm đoạt thì bị can T còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.
Với những phân tích trên đây, tác giả cho rằng có đủ căn cứ để xác định Nguyễn Duy T phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 3 Điều 175 và phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015. Rất mong nhận được ý kiến trao đổi của bạn đọc và đồng nghiệp./.
TANDCC tại Đà Nẵng đã xét xử phúc thẩm vụ án hình sự xảy ra tại dự án Khu đô thị Hoàng Long – Ảnh minh họa.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Khánh thành tượng đài “Bác Hồ với chiến sĩ biên phòng” tại cửa khẩu quốc tế Cầu Treo
-
Sắp diễn ra Tuần lễ Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu 2024
-
Khai mạc Festival “Về miền ví, giặm – Kết nối tinh hoa di sản”
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Hội thảo khoa học "200 ngày tập kết ra Bắc tại Cà Mau - tầm nhìn chiến lược và giá trị lịch sử"
Bình luận