Xây dựng Nghị định mới về đăng ký biện pháp bảo đảm góp phần quan trọng tạo sự an toàn, minh bạch về tài sản, giao dịch

Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ năm 2021, Bộ Tư pháp đã xây dựng dự thảo Nghị định về đăng ký biện pháp bảo đảm (Nghị định) để lấy ý kiến rộng rãi Nhân dân trước khi trình cơ quan có thẩm quyền.

1. Một số vấn đề chung về biện pháp bảo đảm và đăng ký biện pháp bảo đảm

1.1. Biện pháp bảo đảm

Ở các quốc gia phát triển, các quy định về biện pháp bảo đảm (BPBĐ) nghĩa vụ xuất hiện từ rất sớm nhằm tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc thực hiện các nghĩa vụ phát sinh trong quá trình giao lưu dân sự và mua bán, trao đổi hàng hóa. Qua đó, đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định các quan hệ dân sự - kinh tế, hạn chế tranh chấp phát sinh, nâng cao trách nhiệm thực hiện hợp đồng và ý thức thượng tôn pháp luật. Đồng thời, các BPBĐ thực hiện nghĩa vụ còn góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong các giao dịch dân sự - kinh tế trong trường hợp đến hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình.[1]

Ở Việt Nam, việc xác lập BPBĐ giữa các chủ thể với nhau được thực hiện thông qua một giao dịch dân sự, vì vậy giao dịch dân sự này được gọi là giao dịch bảo đảm (GDBĐ) và quan hệ hình thành từ GDBĐ được gọi là quan hệ bảo đảm. Theo quan điểm của Trường Đại học Luật Hà Nội, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được hiểu theo hai phương diện: Về mặt khách quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là những quy định của pháp luật cho phép các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để bảo đảm cho nghĩa vụ đó được thực hiện, đồng thời xác định và bảo đảm quyền, nghĩa vụ của các bên trong các biện pháp đó. Về mặt chủ quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là việc thỏa thuận giữa các bên, qua đó đặt ra các biện pháp tác động mang tính chất dự phòng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ, đồng thời ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.[2]

Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật, có nghiên cứu cho rằng, BPBĐ thực hiện nghĩa vụ dân sự được hiểu là các biện pháp đã được pháp luật quy định nhằm mục đích thúc đẩy các bên thực hiện đầy đủ nghĩa vụ được bảo đảm và trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ thì bên bị vi phạm có quyền xử lý tài sản bảo đảm hoặc yêu cầu thực hiện trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ[3]

Điều 292 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 quy định 09 BPBĐ thực hiện nghĩa vụ, bao gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản.

1.2. Đăng ký biện pháp bảo đảm

Đăng ký giao dịch bảo đảm (BLDS năm 2015 dùng thuật ngữ “đăng ký biện pháp bảo đảm”) ra đời xuất phát từ nhu cầu công khai các giao dịch bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong giao dịch, các bên liên quan, Nhà nước và xã hội.[4]

Về lý luận, đã có một số nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm về đăng ký giao dịch bảo đảm như: “Đăng ký giao dịch bảo đảm là thủ tục pháp lý được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm. Giao dịch bảo đảm đã đăng ký có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật quy định và thông tin về giao dịch bảo đảm được cơ quan đăng ký có thẩm quyền cung cấp là chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm”.[5] Trong một nghiên cứu khác, có tác giả cho rằng “đăng ký giao dịch bảo đảm là việc các bên trong quan hệ thực hiện thủ tục xác nhận với cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm rằng giữa họ đã xác lập giao dịch bảo đảm làm cơ sở cho việc bảo vệ quyền lợi giữa họ và các bên khác có liên quan”.[6]

Về quy định của pháp luật, trong những năm gần đây, trước những yêu cầu của thực tiễn, pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm ngày càng được hoàn thiện, tạo tiền đề quan trọng để các tổ chức, cá nhân thuận lợi trong việc tiếp cận với các nguồn tín dụng và an toàn pháp lý trong giao dịch dân sự, kinh tế.

Ngày 01/9/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 102/2017/NĐ-CP về đăng ký BPBĐ (thay thế Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về đăng ký GDBĐ và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2017). Việc ban hành Nghị định nêu trên là kết quả quan trọng của Bộ Tư pháp trong việc triển khai thi hành BLDS năm 2015, đặc biệt là các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trong đó có quy định về đăng ký BPBĐ, qua đó góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện, thống nhất pháp luật trong lĩnh vực đăng ký BPBĐ, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khi tìm hiểu, áp dụng.

Theo khoản 1 Điều 3 của Nghị định này, “đăng ký biện pháp bảo đảm là việc cơ quan đăng ký ghi vào sổ đăng ký hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu về việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm”.

2. Sự cần thiết ban hành Nghị định mới về đăng ký biện pháp bảo đảm[7]

2.1. Bảo đảm thực hiện đúng chủ trương của Đảng về hoàn thiện thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và các văn kiện khác của Đảng đã xác định cụ thể nhiệm vụ, giải pháp: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính… Trong đó, thể chế đầy đủ quyền sở hữu, đảm bảo hiệu lực thực thi, bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản; hoàn thiện các quy định về đăng ký và giao dịch tài sản; sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan để bảo đảm quyền sử dụng đất thực sự là tài sản được chuyển nhượng, giao dịch, thế chấp cho các nghĩa vụ dân sự, kinh tế…;

Nghị quyết số 99/2021/NQ-CP ngày 30/8/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ năm 2021 - 2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2021 - 2026 xác định mục tiêu, nhiệm vụ: huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, vận hành đồng bộ theo nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; phát triển các loại thị trường vốn, thị trường bảo hiểm… nhằm huy động các nguồn vốn cho việc đầu tư phát triển; tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng, nâng cao tính minh bạch, hiệu quả của thị trường…

2.2. Đáp ứng yêu cầu đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật

Một là, xây dựng Nghị định để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, bao quát được sự thay đổi trong quy định của pháp luật liên quan như Luật Chứng khoán năm 2019, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Đầu tư năm 2020, Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử…

Hai là, đảm bảo sự đầy đủ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, vận hành đồng bộ theo nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong pháp luật về đăng ký giao dịch, tài sản nói chung, đăng ký biện pháp bảo đảm nói riêng; góp phần đảm bảo thực thi nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự năm 2015.

2.3. Khắc phục những vướng mắc, bất cập trong quy định của Nghị định số 102/2017/NĐ-CP

Việc xây dựng Nghị định để tập trung tháo gỡ vướng mắc, bất cập phát sinh từ chính quy định của Nghị định số 102/2017/NĐ-CP như: chưa bao quát được hết hiệu quả, hiệu lực của việc đăng ký; từ chối đăng ký; thông tin về bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm; thông tin trên Phiếu yêu cầu đăng ký; ngôn ngữ sử dụng, chữ ký, con dấu trong đăng ký; trả kết quả đăng ký; đăng ký thay đổi, xóa đăng ký; việc tách bạch giữa xóa đăng ký với hủy đăng ký do hợp đồng bảo đảm bị vô hiệu; cơ chế chỉnh lý thông tin có sai sót; phương thức thanh toán phí đăng ký; nộp hồ sơ đăng ký trên môi trường điện tử; trao đổi thông tin giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền…

2.4. Đáp ứng yêu cầu phát triển mới của kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế

Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế của đất nước ta trong thời gian qua cho thấy, trong phạm vi thẩm quyền của Chính phủ, bên cạnh những kết quả đạt được thì một yêu cầu khách quan đặt ra cần được giải quyết là, thể chế về đăng ký biện pháp bảo đảm, hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm phải được đổi mới hơn, hoàn thiện hơn để thực sự là công cụ pháp lý, bảo chứng của sự an toàn, minh bạch về tài sản, giao dịch; người dân, doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn với chi phí thấp để phát triển sản xuất kinh doanh; chủ thể tài trợ vốn an tâm hơn khi cung ứng vốn cho thị trường một cách an toàn, ổn định; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có được bằng chứng pháp lý chính xác, thuận tiện về biện pháp bảo đảm trong thực hiện quản lý nhà nước hoặc khi giải quyết các vụ việc theo quy định của pháp luật; góp phần cải thiện chỉ số hợp đồng về năng lực cạnh tranh ở Việt Nam.

3. Nội dung cơ bản của dự thảo Nghị định[8]

Dự thảo Nghị định được bố cục thành 06 chương, 74 điều, bao gồm những nội dung chính sau:

3.1. Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1)

Dự thảo Nghị định xác định, phạm vi điều chỉnh của Nghị định là quy định thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng tài sản; đăng ký khác liên quan đến tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; trao đổi thông tin về biện pháp bảo đảm bằng tài sản; quản lý nhà nước về đăng ký biện pháp bảo đảm.

3.2. Về nguyên tắc đăng ký, cung cấp thông tin, trao đổi thông tin (Điều 4)

Nhằm đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong đăng ký, cung cấp thông tin, trao đổi thông tin về biện pháp bảo đảm, tạo thuận lợi cho hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin của cơ quan đăng ký, dự thảo Nghị định quy định nguyên tắc về thông tin về biện pháp bảo đảm phải được công khai, được cung cấp theo yêu cầu, được trao đổi thông tin theo quy định của pháp luật; thực hiện đúng thủ tục, thẩm quyền, thời hạn, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, không làm phát sinh thủ tục khác với quy định của Nghị định; cơ quan đăng ký không phải chịu trách nhiệm về tên hợp đồng bảo đảm và nội dung thuộc quyền thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo đảm; trung thực trong kê khai, cung cấp, trao đổi thông tin; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của thông tin được kê khai, được cung cấp, được trao đổi.

3.3. Về hiệu lực của đăng ký (Điều 5 và Điều 60)

Để đảm bảo minh bạch về hiệu quả, hiệu lực của đăng ký, tách bạch được giữa đăng ký biện pháp bảo đảm và đăng ký khác liên quan đến tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (sau đây gọi là đăng ký khác), Nghị định quy định:

- Thời điểm phát sinh, thời điểm chấm dứt của hiệu lực đăng ký biện pháp bảo đảm, đăng ký khác;

- Hiệu lực của việc đăng ký biện pháp bảo đảm là căn cứ để xác định thời hạn có hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm với người thứ ba theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ;

- Hiệu lực của việc đăng ký khác chỉ là để thông báo, công khai thỏa thuận, cam kết trong giao dịch dân sự; không phải là căn cứ xác định hiệu lực của giao dịch dân sự, hiệu lực đối kháng với người thứ ba;

- Tách bạch giữa hiệu lực của việc xóa đăng ký trong trường hợp biện pháp bảo đảm chấm dứt theo yêu cầu hoặc theo quy định của pháp luật với hủy đăng ký do hợp đồng bảo đảm bị tuyên vô hiệu theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án, Trọng tài hoặc biện pháp bảo đảm được đăng ký tại cơ quan đăng ký không có thẩm quyền.

3.4. Về thẩm quyền của cơ quan đăng ký (Điều 11, Điều 70, Điều 71)

Để đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật liên quan, minh bạch, thuận lợi về thẩm quyền đăng ký, quản lý nhà nước về đăng ký biện pháp bảo đảm, dự thảo Nghị định bổ sung thẩm quyền đăng ký của Tổng Công ty lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam đối với đăng ký liên quan đến chứng khoán đã được đăng ký tập trung theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Đồng thời, bên cạnh quy định thẩm quyền chung, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng ký, dự thảo Nghị định cũng quy định cụ thể các trường hợp đăng ký thuộc thẩm quyền riêng của từng cơ quan đăng ký, cụ thể hóa cơ chế pháp lý về trao đổi thông tin giữa cơ quan đăng ký với cơ quan, người có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật về thẩm quyền trao đổi thông tin, nguyên tắc, nội dung trao đổi thông tin, hình thức, thời hạn trao đổi thông tin.

3.5. Về hồ sơ, thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin

3.5.1. Về hồ sơ đăng ký, cung cấp thông tin

Để đảm bảo sự minh bạch, thống nhất về hồ sơ đăng ký, tránh làm phát sinh những yêu cầu không phù hợp trong thực tiễn đăng ký, dự thảo Nghi định quy định cụ thể:

- Thông tin phải có trên Phiếu yêu cầu đăng ký; các Biểu mẫu là tài liệu, giấy tờ thuộc thành phần hồ sơ; chữ ký, con dấu trong đăng ký; ngôn ngữ sử dụng trong đăng ký; việc mô tả thông tin về tài sản bảo đảm trong một số trường hợp cụ thể, ví dụ: động sản không phải là tàu bay, tàu biển, chứng khoán đã được đăng ký tập trung (các điều 7, 8, 39, 40, 41, 42, 46, 47, 50, 51, 54, 57, 68);

- Thành phần hồ sơ đăng ký đối với trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm có tài sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở; dự án đầu tư xây dựng công trình không phải là nhà ở; tài sản hình thành trong tương lai; tài sản là cây hằng năm, công trình tạm; tài sản là dự án đầu tư nông nghiệp, dự án phát triển rừng, dự án trồng cây lâu năm, cây hằng năm, dự án khác có sử dụng đất, chuyển tiếp đăng ký thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán tài sản gắn liền với đất sang đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất; hồ sơ đăng ký khác (các điều 39, 40, 63);

- Cụ thể hóa thành phần hồ sơ đăng ký thay đổi đối với trường hợp mua bán quyền đòi nợ, khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán khác; hồ sơ xóa đăng ký đối với trường hợp tổ chức kinh tế không phải là tổ chức tín dụng nhận thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của cá nhân, hộ gia đình sử dụng đất trở thành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; người yêu cầu xóa đăng ký không phải là bên nhận bảo đảm, như: bên bảo đảm, Cơ quan thi hành án dân sự, người mua tài sản bảo đảm bị xử lý, người nhận chuyển giao quyền sở hữu tài sản bảo đảm… (các điều 41, 47, 51, 57, khoản 4 Điều 42).

3.5.2. Về thủ tục đăng ký

Thủ tục đăng ký được dự thảo Nghị định quy định theo cách tiếp cận,  quy định thủ tục chung trong đăng ký biện pháp bảo đảm, đồng thời quy định thủ tục tiêng theo từng loại tài sản bảo đảm, trong đó:

a) Về các trường hợp đăng ký (các điều 11, 36, 45, 49, 53 và 59)

Để đảm bảo bao quát đầy đủ các trường hợp đăng ký, thuận tiện cho việc áp dụng, xác định thẩm quyền của cơ quan đăng ký, dự thảo Nghị định không quy định chung các trường hợp đăng ký mà cụ thể hóa các trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm theo từng loại tài sản. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, dự thảo Nghị định bổ sung cơ chế pháp lý về đăng ký thế chấp bằng căn hộ lưu trú (condotel), văn phòng kết hợp lưu trú (officetel), nhà ở kết hợp kinh doanh thương mại để đáp ứng yêu cầu phát sinh trong thực tiễn. Đồng thời, dự thảo Nghị định cũng quy định cụ thể các trường hợp đăng ký khác và thẩm quyền thực hiện việc đăng ký này.

b) Về từ chối đăng ký (Điều 6, Điều 43)

Để minh bạch, hạn chế sự tùy tiện trong từ chối đăng ký và để hạn chế rủi ro, phát sinh thêm chi phí cho người yêu cầu đăng ký, dự thảo Nghị định quy định:

- Cơ quan đăng ký chỉ thực hiện việc từ chối đăng ký khi có căn cứ được quy định trong Nghị định. Bên cạnh đó, dự thảo Nghị định cụ thể hóa một số trường hợp Văn phòng Đăng ký đất đai và Chi nhánh vẫn thực hiện việc đăng ký khi thông tin mà các bên thỏa thuận mô tả tài sản bảo đảm không phù hợp với thông tin trên Giấy chứng nhận hoặc thông tin được lưu trữ tại cơ quan có thẩm quyền.

-  Cơ quan đăng ký không từ chối đăng ký vì lý do: tên hợp đồng bảo đảm, nội dung thỏa thuận về giá trị tài sản bảo đảm, nghĩa vụ được bảo đảm, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác, phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm, thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm… Cơ quan đăng ký không yêu cầu người yêu cầu đăng ký sửa đổi thông tin, nội dung này.

c) Về người yêu cầu đăng ký (khoản 4 Điều 7, Điều 9, Điều 16)

Để đảm bảo phù hợp về thẩm quyền yêu cầu đăng ký theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và pháp luật liên quan, dự thảo Nghị định quy định người yêu cầu đăng ký theo hướng tách bạch người có quyền yêu cầu đăng ký lần đầu với người có quyền yêu cầu trong đăng ký thay đổi và xóa đăng ký; quy định cụ thể thông tin về bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm, người đại diện trong đăng ký; quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu đăng ký.

d) Về nộp, tiếp nhận, giải quyết hồ sơ đăng ký, cung cấp thông tin; trả kết quả đăng ký, cung cấp thông tin (các điều 12, 18, 19, 20, 21)

Để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, cũng như đảm bảo tính khả thi trong việc giải quyết hồ sơ đăng ký, cung cấp thông tin, dự thảo Nghị định bên cạnh tiếp tục quy định về việc nộp hồ sơ đăng ký theo phương thức nộp hồ sơ qua môi trường điện tử và nộp hồ sơ đăng ký bằng bản giấy thì đã cụ thể hóa hơn quy trình tiếp nhận, kiểm tra thành phần hồ sơ đăng ký của cơ quan đăng ký, trong đó:

 - Tách bạch thời hạn giải quyết hồ sơ khi từ chối đăng ký với thời hạn giải quyết hồ sơ để thực hiện đăng ký;

- Các trường hợp cơ quan đăng ký không thực hiện đăng ký do có sự kiện bất khả kháng trong việc tiếp nhận hồ sơ, giải quyết hồ sơ đăng ký và thời hạn giải quyết hồ sơ trong trường hợp này;

- Việc thông báo cho người yêu cầu đăng ký để hướng dẫn hoàn thiện, bổ sung thành phần hồ sơ; việc gửi giấy tờ, tài liệu tới cơ quan có thẩm quyền để xác minh trong phát hiện trường hợp giấy tờ, chữ ký, con dấu trong hồ sơ có dấu hiệu giả mạo và thời hạn giải quyết hồ sơ trong trường hợp này;

- Phương thức trả kết quả đăng ký phù hợp với phương thức nộp hồ sơ đăng ký, giá trị pháp lý của kết quả đăng ký;

- Cơ chế, quy trình thực hiện việc đăng ký trên môi trường điện tử.

3.5.3. Về đăng ký thay đổi (Điều 22)

Để đảm bảo tính chính xác của thông tin về biện pháp bảo đảm đã đăng ký, hạn chế các thủ tục đăng ký thay đổi không cần thiết, dự thảo Nghị định tách biệt giữa các trường hợp phải đăng ký thay đổi với các trường hợp đăng ký thay đổi khi có yêu cầu; thực hiện xóa đăng ký đối với nội dung được đăng ký thay đổi trong trường hợp rút bớt tài sản bảo đảm; làm rõ hơn trách nhiệm của người yêu cầu đăng ký khi không thực hiện đăng ký đối với trường hợp phải đăng ký thay đổi;

3.5.4. Về xóa đăng ký (các điều 25, 42, 47, 51, 57, 62, 63)

Để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất với quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bao quát đầy đủ các tình huống phát sinh trong thực tiễn, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của chủ sở hữu tài sản, chủ thể khác liên quan, dự thảo Nghị định cụ thể hóa:

- Các trường hợp xóa đăng ký để phù hợp với thực tiễn và phù hợp với thay đổi của quy định pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, ví dụ: xóa đăng ký trong trường hợp tài sản bảo đảm không còn do bị chia, tách thành nhiều tài sản, được sáp nhập, hợp nhất, trộn lẫn, được dùng để góp vốn; tổ chức kinh tế không phải là tổ chức tín dụng nhận thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của cá nhân, hộ gia đình sử dụng đất trở thành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;

- Ghi nhận việc xóa đăng ký đối với tài sản được rút bớt đối với trường hợp đăng ký thay đổi do rút bớt tài sản bảo đảm; trường hợp xóa đăng ký một phần nội dung thì không làm thay đổi hoặc chấm dứt hiệu lực đăng ký của nội dung không bị xóa;

- Bổ sung quy định về các trường hợp cơ quan đăng ký chủ động xóa đăng ký, ví dụ: chuyển tiếp đăng ký thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở; nhận được bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án có nội dung về việc yêu cầu cơ quan đăng ký xóa đăng ký;

- Trách nhiệm của người yêu cầu đăng ký trong trường hợp không thực hiện xóa đăng ký khi có căn cứ để việc đăng ký phải xóa;

- Bổ sung quy định về xóa đăng ký đối với trường hợp đăng ký khác.

3.5.5. Về hủy việc đăng ký (Điều 26, Điều 62)

Để đảm bảo phù hợp với bản chất pháp lý của hiệu lực giao dịch, hợp đồng, hiệu lực của việc đăng ký, dự thảo Nghị định bổ sung cơ chế pháp lý về hủy việc đăng ký, tách bạch khỏi thủ tục xóa đăng ký. Theo đó, việc đăng ký biện pháp bảo đảm bị hủy khi có bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án, trọng tài tuyên bố hợp đồng bảo đảm vô hiệu, việc đăng ký không đúng thẩm quyền hoặc trường hợp khác theo quy định của luật mà dẫn tới biện pháp bảo đảm đó phải bị hủy; không thừa nhận hiệu lực của đăng ký kể từ thời điểm đăng ký; cơ chế pháp lý xử lý trong trường hợp hủy đăng ký, hoãn hủy việc đăng ký; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan.

3.5.6. Về cung cấp thông tin (Điều 65 – Điều 69)

Để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất với quy định pháp luật về tiếp cận thông tin, cụ thể hóa nguyên tắc thông tin về biện pháp bảo đảm bằng tài sản, về thỏa thuận, cam kết được cung cấp theo yêu cầu và phải được công khai, dự thảo Nghị định cụ thể hóa cơ chế pháp lý về công khai thông tin, nội dung, phương thức, tiêu chí tìm hiểu, cung cấp thông tin./.

 

Nghị định đảm bảo sự minh bạch, ổn định, vận hành đồng bộ theo nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước - Ảnh minh họa của Thái Vũ

 

[1] Lê Vũ Nam (2015), Hoàn thiện các quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Tạp chí nghiên cứu lập pháp, ngày 01/7/2015, tại .

[2] Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam - Tập II, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 59.

[3] Toà án nhân dân tối cao (2020), Pháp luật về giao dịch bảo đảm từ 1991 đến nay - thực tiễn xét xử và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử các tranh chấp về giao dịch bảo đảm, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, tr. 15-16.

[4] Trần Việt Hùng (2014), Đăng ký giao dịch bảo đảm - Từ thực tiễn hoạt động của Ngân hàng Techcombank, Luận văn thạc sỹ Luật học.

[5] Hồ Quang Huy (2007), Pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm, Luận văn thạc sĩ luật học, tr. 9.

[6] Trần Việt Hùng (2014), Đăng ký giao dịch bảo đảm - Từ thực tiễn hoạt động của Ngân hàng Techcombank, Luận văn thạc sĩ luật học, tr. 24.

[7] Nguồn: Dự thảo Tờ trình Nghị định về đăng ký biện pháp bảo đảm, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, tại: http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/congdan/DuThaoVanBan?_piref135_27935_135_27927_27927.mode=detail&_piref135_27935_135_27927_27927.id=4632, truy cập ngày 05/11/2021.

[8] Nguồn: Dự thảo Nghị định về đăng ký biện pháp bảo đảm, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, tại: http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/congdan/DuThaoVanBan?_piref135_27935_135_27927_27927.mode=detail&_piref135_27935_135_27927_27927.id=4632, truy cập ngày 05/11/2021.

 

ThS. TẠ ĐÌNH TUYÊN