Áp dụng khoản 4 Điều 141 đối với bị cáo Bùi Văn M

Sau khi nghiên cứu nội dung bài viết “Hình phạt nào cho bị cáo hiếp dâm?” của tác giả Nguyễn Hải Phong đăng ngày 18/11/2021 chúng tôi cho rằng, nên áp dụng khoản 4 Điều 141 đối với bị cáo Bùi Văn M.

Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 54 BLHS Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này”.

Điều luật quy định “Có thể” đây là quy định tùy nghi mà Tòa án được phép áp dụng đối với một số trường hợp cụ thể khi bị cáo có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ nhưng căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, đối tượng của tội phạm để áp dụng hình phạt cho phù hợp. Có thể hiểu bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ là điều kiện cần nhưng điều kiện đủ phải xét đến tình chất, mức độ, đối tượng mà tội phạm thực hiện mới có thể áp dụng khoản 1 Điều 54.

Trong vụ án nêu trên Bùi Văn M (Sinh năm 1985) đã thực hiện hành vi hiếp dâm đối với chị Nguyễn Thị T (Sinh năm 2003) là người dưới 18 tuổi đây là độ tuổi được pháp luật hình sự bảo vệ và có các quy định riêng, do tính chất, mức độ và đối tượng thực hiện hành vi phạm tội mang tính nguy hiểm nên trong trường hợp này Bùi Văn M không được áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS để xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Thứ hai: Trong BLHS ở các tội danh xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm người khác có các khoản hoặc có quy định áp dụng đối với đối tượng người dưới 18 tuổi, như đã phân tích ở trên thì đây là đối tượng được pháp luật có cơ chế bảo vệ đặc biệt nên có các quy định khác so với các đối tượng khác.

Theo quy định tại Điều 141 BLHS về tội hiếp dâm như sau:

“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:… d) Phạm tội 02 lần trở lên.

4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó...”

Cấu tạo Điều 141 BLHS được hiểu như sau: Nếu người phạm tội với người từ 16 tuổi đến 18 tuổi nhưng thỏa mãn quy định tại khoản 1 Điều 141 thì áp dụng khoản 4 Điều 141 để xử lý vì khoản 1 chỉ có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, trong khi đó khoản 4 có mức hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm, tương tự tại khoản 2 và khoản 3, vì hình phạt ở các khoản là khác nhau mà người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là đối tượng được bảo vệ đặc biệt nên mức hình phạt áp dụng nghiêm khắc hơn so với các đối tượng khác. Nên trong vụ án nêu trên chị Nguyễn Thị T là người dưới 18 tuổi nên việc áp dụng khoản 4 với tình tiết “Phạm tội từ 02 lần trở lên” tại khoản 2 với mức hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với Bùi Văn M là phù hợp với chính sách pháp luật hình sự của nước ta.

Trên đây là ý kiến treo đổi về nội dung bài viết của tác giả Nguyễn Hải phong rất mong nhận được ý kiến trao đổi từ bạn đọc./.

 

TAND huyện Triệu Phong (Quảng Trị) mở phiên toà sơ thẩm xét xử nhóm nam sinh hiếp dâm tập thể nữ sinh lớp 10 gây rúng động dư luận Ảnh: Đông Hiền

TRẦN VĂN HÙNG (Tòa án Quân sự Khu vực Quân khu 4)