Vụ tranh chấp tài sản thừa kế và những vấn đề cần lưu ý khi xét xử lại từ sơ thẩm

Quyết định giám đốc thẩm số 37/2019/DS-GĐT ngày 28-6-2019 của Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế tài sản” tại tỉnh Thanh Hóa giữa nguyên đơn là ông Lê Văn C1, Lê Văn C2, bà Lê Thị M với bị đơn là ông Lê Văn D, bà Nguyễn Thị T2.

Quy định của pháp luật liên quan

– Khoản 2 Điều 3 Luật Đất đai năm 1993 (tương ứng với khoản 1 Điều 106 Luật Đất đai năm 2003 và khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013);

– Khoản 2 Điều 170 Bộ luật Dân sự năm 2005.

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18-02-2014 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Lê Văn C1, ông Lê Văn C2 và bà Lê Thị M trình bày:

Khi cụ Lê Văn U kết hôn với cụ Nguyễn Thị K, cụ U đã có 03 con riêng (với người vợ đã chết) là ông Lê Quang T1, ông Lê Văn D1 và ông Lê Quang D2. Cụ U và cụ K có 03 con chung là ông Lê Văn C1, Lê Văn C2 và bà Lê Thị M.

Năm 1963, cụ U và cụ K rời xã Q, huyện H đi khai hoang vùng kinh tế mới tại làng L (nay thuộc thôn 5, xã Q, thị xã B, tỉnh T) có mang theo 04 con là ông D2, ông C1, ông C2 và bà M. Khi đi hai cụ dỡ căn nhà bếp mang theo và để lại ngôi nhà 05 gian tại xã Q cho ông T1 và ông D1 sở hữu. Hai cụ khai hoang tạo lập được thửa đất số 986 tại thôn 5, xã Q và xây dựng 05 gian nhà để sinh sống. Ông D2 đi bộ đội hy sinh năm 1972 chưa vợ con. Ông C1 và ông C2 nhập ngũ. Năm 1989, ông C1 về phục viên và năm 1992, ông C2 về phục viên.

Ông T1 kết hôn với bà Lê Thị C3, ông D1 kết hôn với bà Nguyễn Thị T2. Trong thời gian chung sống tại xã Q, bà Lê Thị C3 và bà Nguyễn Thị T2 có mâu thuẫn nên năm 1983, bà T2 ra thị xã S xin ở với cụ U, cụ K và bà M.

Năm 1997, cụ U chết không có di chúc. Ngày 14-10-2003, cụ K nhận thấy anh em trong gia đình có sự mâu thuẫn về đất đai nên gọi ông C1, ông C2, bà M, ông T1 và ông D1 về họp gia đình với mục đích chia thừa kế đối với thửa đất số 986 tại thôn 5, xã Q. Cuộc họp đã được chính ông D1 ghi biên bản với mục đích chia quyền sử dụng đất. Tại cuộc họp tất cả đều công nhận đất là của hai cụ tạo lập, để lại và đã xác định ranh giới, nhưng không thống nhất được cách chia, cụ thể cụ K, ông C1, ông C2 và bà M không đồng ý nhận 10m mặt đường theo ý kiến của ông D1.

Năm 2006, cụ K chết không để lại di chúc, anh em trong nhà có bàn bạc chia thừa kế tài sản của bố mẹ để lại, nhưng không thống nhất được, nên ông C1, ông C2 và bà M đã nhờ chính quyền thôn hòa giải vào ngày 22-8-2008. Ngày 10-10-2010, ông D1 thừa nhận ra ở tại khu đất đang tranh chấp từ năm 1984 đến nay.

Ông C1, ông C2 và bà M khởi kện yêu cầu Tòa án: Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C364176 đứng tên hộ gia đình bà T2 tại thôn 5, xã Q; để lại 116m2 đất thửa số 986 làm nhà thờ hai cụ, phần còn lại chia thừa kế cho các ông bà. Đối với các công trình trên đất và gần 20m mặt đường ông D1 đã bán khi hai cụ còn sống, các nguyên đơn không yêu cầu đòi lại và không yêu cầu chia thừa kế.

Bị đơn là ông D1, bà T2 trình bày:

Thửa đất các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế không phải là đất của bố mẹ để lại. Đất này vợ chồng ông D1, bà T2 đã dùng 2.112m2 đất thửa số 288 tờ bản đồ 299 trong bản đồ địa chính xã Q là đất ông bà được xã cấp năm 1982 để đổi cho cụ U và cụ K lấy thửa số 986 (là thửa số 40 theo bản đồ năm 1997), đã là đất đổi thửa thì không còn là đất của hai cụ và hiện nay vợ chồng ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Đề nghị cấp có thẩm quyền thu hồi thửa đất số 288, chủ sử dụng đất là hai cụ. Thửa đất này ông C1 đã tự chuyển nhượng cho anh Trịnh Văn T3 là bất hợp pháp, vì không có sự bàn bạc của các thành viên trong gia đình trong đó có ông D1. Thửa đất số 288 hai cụ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng vào năm 1994 mới là đất hai cụ để lại để chia thừa kế.

Các biên bản hòa giải nguyên đơn nộp kèm đơn khởi kiện là không khách quan, không đúng pháp luật, vì gia đình ông bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1994 đến nay đã hơn 20 năm. Trước khi gia đình ông bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ai có tranh chấp.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2016/DSST ngày 27-5-2016, Tòa án nhân thị xã Bỉm Sơn đã quyết định:

Hủy một phần Quyết định số 71QĐ/UBBS ngày 23-9-1994 của Ủy ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn về phần giao ruộng đất ổn định lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Nguyễn Thị T2. Ủy ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn có nghĩa vụ thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C36476 mang tên hộ bà Nguyễn Thị T2 để làm thủ tục cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật.

Chia cho ông Lê Văn C1, ông Lê Văn C2 và bà Lê Thị M được hưởng di sản thừa kế của cụ Nguyễn Thị K gồm: 538m2 đất tại thôn 5, xã Q, thị xã B. Cụ thể mỗi người được chia quyền sử dụng 179,33m2đất có trị giá 137.708.000 đồng.

Tạm giao phần di sản của cụ Lê Văn U gồm ½ thửa đất số 986 có diện tích 538m2 cho ông D1 tiếp tục quản lý sử dụng cho đến khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn có quyết định khác, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 08-6-2016, ông D1 và bà T2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 85/2016/DSPT ngày 16-9-2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn D1 và bà Nguyễn Thị T2.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 04 ngày 27-5-2014 của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn.

Ngày 30-12-2016, Công ty luật TNHH N (là người bảo vệ quyền lợi cho ông D1) và ông D1, bà T2 có đơn đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 06/2019/KN-DS ngày 14-02-2019, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử giám đốc thẩm huỷ Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2016/DSST ngày 27-5-2016 của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN

[1] Cụ Lê Văn U và cụ Nguyễn Thị K có 03 con chung là ông Lê Văn C1, Lê Văn C2 và bà Lê Thị M. Cụ U còn có 03 con riêng (với vợ đã chết) là ông Lê Quang T1, ông Lê Văn D1 và ông Lê Quang D2 (đã hy sinh năm 1972 khi chưa có vợ con). Năm 1997, cụ U chết và năm 2006, cụ K chết đều không để lại di chúc. Ngày 18-02-2014, Lê Văn C1, Lê Văn C2 và bà Lê Thị M khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C364176 ngày 23-9-1994 đứng tên hộ bà T2 tại thôn 5, xã Q, thị xã B, tỉnh T; chia thừa kế thửa đất số 986, tờ bản đồ số 1, bản đồ địa chính xã Q, thị xã B, tỉnh T do ông D1 và bà T2 đang quản lý sử dụng.

[2] Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự thống nhất khai nguồn gốc đất đang tranh chấp là do cụ U và cụ K khai phá được khi đi khai hoang. Ông D1 và bà T2 khai năm 1982, vợ chồng từ huyện H ra thị xã B sống cùng với cụ U, cụ K và bà M ở thửa đất trên; năm 1984, vợ chồng ông đuợc Ủy ban nhân dân xã Q cấp cho một thửa đất tại khu xăng dầu (tại Chỏm V) và vợ chồng ông đã đổi đất được cấp cho cụ U, cụ K để lấy thửa đất số 986 (theo bản đồ địa chính năm 1997 là thửa đất số 40) và vợ chồng ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên đất đang tranh chấp không phải là di sản của cụ U và cụ K để lại nữa, mà là tài sản riêng của ông D1, bà T2. Bà M và ông C1 thống nhất khai năm 1984 (khi đó ông C1 và ông C2 vẫn đang phục vụ trong quân đội, vợ ông C1 dạy học ở địa phương khác nên không thể đứng tên xin đất), theo đề nghị của cụ U, bà M đứng tên ông D1 làm đơn xin cấp đất nhằm mục đích cho ông C1 và được Ủy ban nhân dân xã Q cấp cho một thửa đất tại Chỏm V, nhưng vì ông D1, bà T2 không chịu ra đất mới được cấp ở, để tránh mâu thuẫn trong gia đình, ông C1 đã làm nhà tại đất mới được cấp rồi đưa cụ U, cụ K và bà M ra đó ở; do đó, mặc dù đất mới được cấp đứng tên hộ cụ U nhưng là của ông C.

[3] Tại Công văn số 910/UBND-TNMT ngày 28-7-2014 của UBND thị xã Bỉm Sơn có nội dung:

[4] Theo bản đồ 299 duyệt công nhận năm 1985, vị trí đất đang tranh chấp thuộc thửa số 986 diện tích 1.616m2 đất T không ghi chủ sử dụng đất; theo bản đồ đo vẽ công nhận tháng 12-1997, đất đang tranh chấp thuộc thửa số 40, tờ bản đồ số 17 diện tích 1.263m2, sổ mục kê ghi đất ở 200m2 và đất vườn 1.063m2 và chủ sử dụng đất là ông D1; theo bản đồ địa chính xã Q đo vẽ duyệt công nhận tháng 12-2011, vị trí đất đang tranh chấp thuộc thửa số 262, tờ bản đồ số 56 diện tích nguyên thửa 1.571m2, mục kê ghi đất ở 120m2, đất trồng cây lâu năm khác 1.451,4m2 và chủ sử dụng đất đứng tên ông D1.

[5] Căn cứ quyết định số 201QĐ/ĐKTK ngày 14-7-1989 của Tổng Cục quản lý ruộng đất ban hành quy định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Quyết định số 117/NN/UBTH ngày 21-01-1993 của Ủy ban nhân dân tỉnh T quy định giao đất ruộng đất ổn định lâu dài cho hộ nông dân; Tờ trình số 73/TT/UB ngày 20-8-1994 của Ủy ban nhân dân xã Q và phương án kèm theo việc phê duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Ủy ban nhân dân thị xã B đã ban hành Quyết định số 71/QĐ/UBBS ngày 23-9-1994 giao ruộng đất ổn định lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 716 hộ nông dân thuộc hợp tác xã T, xã Q, trong đó có hộ bà T2; hộ bà T2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 23-9-1994, tổng diện tích đất được sử dụng 3.409m2, bao gồm 200m2 đất thổ cư, 786m2 đất thổ canh thửa số 986a, còn lại là đất sản xuất nông nghiệp.

[6] Theo Tờ trình số 73/TT/UB ngày 20-8-1994 của Ủy ban nhân dân xã Q cho thấy: Ủy ban nhân dân xã Q trình Chủ tịch Ủy ban nhân thị xã B phê duyệt về vệc giao đất ổn định lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 716 hộ nông dân trên địa bàn xã đã được tổ chức công khai hồ sơ và có đơn đăng ký sử dụng đất.

[7] Tại Quyết định số 71/QĐ/UBBS ngày 23-9-1994, Ủy ban nhân dân thị xã B đã quyết định giao đất ổn định lâu dài cho 716 hộ nông dân thuộc hợp tác xã T, xã Q. Theo quyết định trên, hộ bà T2 được giao tổng cộng 3.409m2 đất, trong đó có 200m2 đất thổ cư, 876m2 đất thổ canh đều thuộc thửa số 986a, còn lại là đất lúa ở các thửa khác nhau và hộ bà T2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng ngày; hộ cụ U được giao tổng cộng 1.776m2 đất, trong đó có 200m2 đất thổ cư, 556m2 đất thổ canh đều thuộc thửa số 325 (theo các đương sự khai chính là thửa số 288), còn lại là đất lúa ở các thửa khác nhau.

[8] Như vậy, với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy việc giao đất cho các hộ nông dân của xã Q là thực hiện theo chính sách của Nhà nước và được lập hồ sơ công khai. Khi Ủy ban nhân dân xã Q và Ủy ban nhân dân thị xã B thực hiện chính sách giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 716 hộ nông dân của xã Q, trong đó có hộ cụ U và hộ bà T2, cụ U và cụ K đều còn sống nhưng không có đơn, không kê khai đối với thửa đất đang tranh chấp, hai cụ chỉ kê khai đối với thửa đất số 325 (theo ông D1, bà T2 khai là thửa đất đổi cho hai cụ) và hai cụ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này, hộ bà T2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa số 986a (là thửa 986 đang tranh chấp). Mặt khác, sau khi hộ bà T2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất đang tranh chấp không có ai khiếu nại; chỉ đến năm 2008, khi cụ U, cụ K đã chết mới xảy ra tranh chấp giữa các con của hai cụ. Do đó, có căn cứ xác định cụ U và cụ K đã đổi đất cho bà T2, ông D1.

[9] Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng theo bản đồ 299 năm 1985, cụ K, cụ U là người sử dụng đất đang tranh chấp, nên đất đang tranh chấp là di sản của U, cụ K và đã chia thừa kế đất của cụ K là không đúng.

[10] Sau khi xét xử sơ thẩm, ông D1 và bà T2 đã kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm xác định thửa đất số 325 đứng tên hộ cụ U là tài sản riêng của vợ chồng ông C1, còn thửa đất số 986 đứng tên hộ bà T2 mới là di sản của cụ U, cụ K để lại nên đã không chấp nhận kháng cáo của ông D1, bà T2 và giữ nguyên các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là sai lầm nghiêm trọng gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông D1, bà T2.

[11] Về tố tụng: Khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm không đưa ông T1 và hai con của ông D1, bà T2 tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 337, Điều 342, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chấp nhận kháng nghị của kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 85/2016/DSPT ngày 16-9-2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2016/DSST ngày 27-5-2016 của Tòa án nhân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa đối với vụ án “Tranh chấp thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là ông Lê Văn C1, ông Lê Văn C2 và bà Lê Thị M với bị đơn là ông Lê Văn D1, bà Nguyễn Thị T2 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

 BÌNH LUẬN

1.Việc thu thập tài liệu, chứng cứ

Có căn cứ kết luận cụ Lê Văn U, chết năm 1997, có hai vợ. Người vợ đầu của cụ U đã chết, nhưng tên người vợ đầu là gì không thấy ghi trong nội dung sự việc (?). Hai cụ có 3 con chung là ông Lê Quang T1 (kết hôn với bà Lê Thị C3), ông Lê văn D1 (kết hôn với bà Nguyễn Thị T2), ông Lê Quang D2, đã hy sinh năm 1972, chưa có vợ con.

Người vợ sau của cụ U là cụ Nguyễn Thị K, cụ K chết năm 2006 . Hai cụ có 3 con chung là ông Lê Văn C1 (đi bộ đội phục viên năm 1989), Lê Văn C2 (đi bộ đội phục viên năm 1992), và bà Lê Thị M.

Năm 1963 cụ U, cụ K đi vùng kinh tế mới có để lại ngôi nhà 5 gian tại xã Q cho ông T1, ông D1. Khi cụ U và cụ K rời xã Q, huyện H đi khai hoang vùng kinh tế mới tại làng L (nay thuộc thôn 5, xã Q thị xã B, tỉnh T) chỉ dỡ căn nhà bếp mang đi cùng với bốn người con là ông D2, ông C1, ông C2 và bà M. Hai cụ khai hoang tạo lập được thửa đất số 986 tại thôn 5 xã Q và xây được ngôi nhà 5 gian.

Tuy nhiên, nghiên cứu Quyết định giám đốc thẩm số 37/2019/DS-G ĐT ngày 28-6-2019 của Ủy ban thẩm phán tòa án nhân dân cấp cao tại Hà nội có thể nhận thấy trong hồ sơ vụ án còn có nhiều điểm mâu thuẫn nhau nhưng chưa được làm rõ, do chưa thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ làm căn cứ cho việc giải quyết. Có phải vì thế mà trong nhận định của Quyết định giám đốc thẩm đôi chỗ phải viết theo lời khai (đang khác nhau) của đương sự mà không có đánh giá, kết luận. Ví dụ có vấn đề đương sự nêu ra khác nhau về tài liệu có trong hồ sơ mà không thấy đánh giá để chốt lại, nó được thể hiện rõ trong phần nội dung sự việc: theo nguyên đơn khai cụ K họp gia đình, do ông D1 ghi biên bản chia thừa kế quyền sử dụng đất thửa 986 tại thôn 5 xã Q nhưng không thống nhất được cách chia? Nguyên đơn còn khai thôn đứng ra hòa giải, có ghi biên bản hòa giải? Còn phía Bị đơn thì khai rằng các biên bản hòa giải nguyên đơn nộp  kèm theo đơn khởi kiện là không khách quan, không đúng pháp luật. Như vậy, có thể hiều sự kiện nguyên đơn khai là có thật, nhưng các bên có lý giải khác nhau về giá trị của nó, vậy bản chất các sự kiện này là như thế nào? Có giá trị chứng minh về di sản của hai cụ không thì chưa được các tòa xem xét, đánh giá? Có lẽ quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ chưa làm rõ được, nên chưa đủ cơ sở để đánh giá chính xác bản chất về sự kiện đó?

Về  thửa đất  986 tại thôn 5 xã Q, thị xã B (có chỗ ghi là thị xã S?) tỉnh T có nguồn gốc do cụ U, cụ K tạo lập khi đến đây khai hoang vùng kinh tế mới (Trong khi giấy chứng nhận ghi là hộ, vậy có phải còn có thành viên khác cùng tạo lập, nếu có thì thành viên đó là những ai? Hồ sơ chưa thu thập tài liệu về vấn đề này).

Về số thửa: Đoạn 1, 2 trong phần nhận định của tòa án ghi thửa 986 nhưng tại đoạn 3, 4 trích công văn 910 UBND-TNMT ngày 28-7-2014 của VBNN thị xã Bỉm Sơn thì thửa đất này thời điểm năm 1985 mang các số 986, năm 1997 là thửa 40, năm 2011 là thửa 262, nhưng từ đoạn 7 trở đi ghi là thửa 986a. Tại đoạn 8 trong phần nhận định của Quyết định giám đốc thẩm khẳng định thửa 986a là thửa 986, nếu chỉ có một thửa thì tại sao từ 986 lại thành 986a? Logic phải có 1 thửa trùng số thì thửa sau mới là 986a (có phải vậy?).

Theo phần trình bày của Nguyên đơn năm 1983 bà T2 ra thị xã S (hay thị xã B?) xin ở với cụ U, cụ K và bà M (còn ông D1 có ra ở cùng…?)

Có cơ sở khẳng định người đứng tên trong đơn xin cấp đất là ông D1 và năm 1984 được Ủy ban cấp đất tại chỏm V. Tuy nhiên, lý giải về việc ông D1 đứng đơn cấp đất thì nguyên đơn, Bị đơn lý giải khác nhau (Nguyên đơn cho rằng “theo đề nghị của cụ U và bà M đứng tên ông D1 làm đơn xin cấp đất nhằm mục đích cho ông C1 và được Ủy ban nhân dân xã Q cấp cho một thửa đất tại chỏm V”, còn ông D1 cho rằng Ủy ban cấp đất cho ông và ông dùng đất này đổi thửa 896 của cụ U) . Có phải vì hồ sơ chưa làm rõ nên phần nhận định tại đoạn 2 của Quyết định giám đốc thẩm cũng chỉ ghi lại lời khai khác nhau đó mà không có nhận định, đánh giá về bản chất của sự kiện này?

Trong thực tiễn đã gặp nhiều vụ việc cấp đất giãn dân (có thể do bố, mẹ viết đơn xin cấp đất đứng tên mình, nhưng nhiều vụ việc thì bố, mẹ ghi tên một người con, hoặc theo ý của bố, mẹ một người con viết đơn và đứng tên trong đơn xin cấp đất), dù khi cấp đất chỉ ghi tên một thành viên trong gia đình, nhưng tòa án đã thu thập được trong hồ sơ là cấp cho cả hộ đó (do hộ đó có đông người, ở quá chật chội nên được cấp cho hộ đó, chứ không phải cấp cho một người trong hộ). Vụ này không rõ thuộc trường hợp cấp chung cho hộ cụ U và sau đó cụ U cho vợ chồng ông D1 thửa 986 (986a) hay cấp riêng cho hộ hay cá nhân ông D1, rồi ông D1 đổi cho cụ U(?). Muốn biết bản chất của việc cấp đất này phải thu thập tài liệu để làm rõ, bằng cách hỏi Ủy ban nơi đã cấp đất, hỏi những người trực tiếp thực hiện việc cấp đất, thu thập hồ sơ cấp đất… Làm rõ việc cấp đất dựa trên tiêu chí, tiêu chuẩn, chủ trương nào; cấp cho cá nhân hay cấp cho cả hộ…

Với thông tin có trong Quyết  định giám đốc thẩm có thể tạm hiểu đất tranh chấp (thửa 986) là của hộ bà T2  (ghi trên giấy chứng nhận), bà là vợ ông D1. Cụ U, anh C1 ra ở đất mới được cấp tại chỏm V (không rõ ngày tháng năm ra ở), sau đó hộ cụ U được cấp giấy chứng nhận đất này (không rõ ngày tháng năm hộ cụ U được cấp giấy chứng nhận). Ngày 23-9-1994 ông D1và bà T2 được cấp giấy chứng nhận thửa 986a.

Nghiên cứu các thông tin có trong Quyết định giám đốc thẩm có thể nhận thấy, về bản chất tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm phạm sai lầm là do hai yếu tố tác động tới. Một là đánh giá tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ chưa chính xác. Hai là còn nhiều vấn đề cũng chưa có tài liệu (chưa thu thập) để làm rõ, thông tin mâu thuẫn nên khó đánh giá đúng sự việc.

Từ thực tiễn cho thấy, khi chưa có đủ các thông tin cần thiết sẽ khó nhìn nhận sự vật được chính xác và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các cấp tòa án dễ có sự đánh giá khác nhau, đưa ra đường lối xử lý khác nhau trong cùng một vụ việc.

Khi đã nói đánh giá chứng cứ thì không thể mặc định ngay một tài liệu nào là căn cứ để ra phán quyết, mà phải xem xét, đặt nó trong mối quan hệ với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ mới rút ra kết luận chính xác.

Nếu nội dung tại đoạn 8 trong phần “nhận định của tòa án” của Quyết định giám đốc thẩm là đúng với thực tế, tức là có việc đổi đất thật, thì việc áp dụng tình huống đổi trên thực tế cho vụ việc khác tương tự là rất hiếm. Trong khi các thông tin có trong Quyết định giám đốc thẩm (có lẽ chưa thu thập tài liệu) chưa biết được là Ủy ban nhân dân xã cấp đất cho anh D1 (hay cấp cho hộ anh D1) hay cho hộ cụ U (gia đình chính sách có 3 con đi bộ đội là anh C1, anh C2 , anh D2 là liệt sĩ) mà anh D1 chỉ là người đứng tên xin cấp đất cho hộ cụ U, từ đó việc sử dụng đất sau đó là do đổi đất hay cho chưa có căn cứ chắc chắn để kết luận: đổi hay cho là đúng với thực tế?

2.Những vấn đề cần lưu ý khi giải quyết lại

Trong Quyết định giám đốc thẩm chưa định hướng đày đủ về hướng giải quyết tranh chấp di sản thừa kế của cụ U, cụ K khi xét xử lại từ sơ thẩm, do đó những vấn đề dưới đây cần lưu ý khi xử lại, đó là:

+ Theo quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 thì phần di sản của cụ U đã hết thời hiệu khởi kiện, nên Tòa án cấp sơ thẩm, tòa án cấp phúc thẩm không chia thừa kế di sản của cụ U và đã quyết định: “Tạm giao phần di sản của cụ Lê Văn U gồm ½ thửa đất số 986 có diện tích 538m2 cho ông D1 tiếp tục quản lý sử dụng cho đến khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” là đúng.

Tuy nhiên, thời điểm ban hành quyết định giám đốc thẩm, thời điểm tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết lại vụ án thì Bộ luật dân sự năm 2015 đang có hiệu lực, theo quy định tại Điều 623[1], Điều 688[2] Bộ luật dân sự năm 2015 thì phần di sản của cụ U vẫn còn thời hiệu khởi kiện. Do đó, khi thụ lý, giải quyết lại từ sơ thẩm cần chú ý phân chia di sản của cụ U theo pháp luật thừa kế khi các đương sự có yêu cầu, bảo đảm việc áp dụng luật được chính xác.

+ Ngoài các vấn đề  mà quá trình tố tụng trước đây tòa án cấp sơ thẩm, tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập đủ tài liệu, chứng cứ làm rõ các vấn đề hai bên đương sự đặt ra mà tác giả đã nêu tại mục 1, thì vấn đề có ý nghĩa quan trọng là  toàn bộ thửa đất số 325 có là di sản của vợ chồng cụ U, cụ K hay chỉ có một phần là di sản của hai cụ cần được làm rõ?

Ủy ban nhân dân đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cả hai hai thửa đất là thửa 986  (hay thửa 986a?) và thửa 325. Tại các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên đều ghi là cấp cho “hộ”.

Giả thiết việc ghi trên giấy chứng nhận là cấp cho “hộ” bà T2 thửa 986 còn gọi là thửa 986a, cấp cho “hộ” cụ U thửa 325 là đúng, thì thửa 325 chỉ có một phần là di sản hai cụ.

Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu và dựa trên các thông tin có trong quyết định giám đốc thẩm tác giả có lý do để nghi ngờ việc ghi là “hộ” trong giấy chứng nhận là không chính xác. Bởi lẽ tại phần nội dung sự việc, trong phần nhận định của Quyết định giám đốc thẩm chỉ nêu cụ U, cụ K tạo lập, đổi đất, chứ không phải những người trong “hộ” tạo lập, những người trong hộ đổi đất. Giấy chứng nhận ghi là “hộ”, vậy dựa vào tài liệu, chứng cứ nào để ghi là “hộ”, hay chỉ theo một mẫu có sẵn cán bộ cấp cho dân nên tất cả các gia đình được cấp trong đợt đó dù đất do cha ông để lại, do vợ chồng mua bán… mà có, nhưng theo mẫu tất cả được ghi là “hộ”.

 Giả thiết việc những chủ thể có quyền đến thửa đất, dù trước đó không phải là đất của “hộ” gia đình, nhưng sau đó đều tự nguyện chuyển đất này cho các thành viên khác trong gia đình và việc ghi là “hộ” trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã phản ánh đúng ý chí của các chủ thể có quyền liên quan đến thửa đất được cấp giấy chứng nhận, việc ghi là “hộ” trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được coi là đúng thì vấn đề quan trọng nhất khi giải quyết lại vụ án cần phải làm rõ nội dung “hộ” gia đình gồm những ai. Nói khác đi những ai có quyền lợi trong thửa đất đó ?

 Nếu đất là của “hộ” cụ U phải thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ (Quyết định giám đốc thẩm chưa đề cập) những ai có quyền lợi trên thửa 325, với tư cách thành viên trong hộ, từ đó mới xác định được di sản của hai cụ gồm những gì? Quyền sử dụng đất của hai cụ có bao nhiêu và đây mới là di sản của hai cụ, mới phân chia thừa kế?

Có một điều có thể khẳng định, giấy chứng nhận ghi “hộ” cụ U, chắc chắn không phải chỉ có vợ chồng cụ U, vì theo các thông tin dù chưa thật rõ ràng trong Quyết định giám đốc thẩm, thì những người đang ở trên đất này (trước và tại thời điểm cấp giấy) ít ra còn có anh C1 (vợ con anh C1 có cùng ở đây không, có tham gia “tạo” ra đất này? Chị M có là thành viên trong “hộ” cụ U,…?

Để xác định ai có quyền lợi trên đất này với tư cách thành viên trong “hộ” không thể chỉ căn cứ vào thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mà trong phần lớn trường hợp phải thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ những ai có công tạo ra thửa đất 986 (nếu có việc đổi đất thì thửa 325 chỉ là kết quả của thửa 986).

Lý do thứ nhất: Thửa 325 giấy chứng nhận ghi “hộ” cụ U có nguồn gốc như bị đơn khai là do đổi đất thửa 986 mà có.

Lý do thứ hai: Cụ U, cụ K đã có đất này từ trước khi được cấp giấy chứng nhận. Vì vậy, giấy chứng nhận chỉ có ý nghĩa xác định một thực tế, ghi nhận một sự thật những ai vốn có quyền lợi trên đất đó, chứ giấy chứng nhận trong trường hợp này không phải là kết quả của sự “ban phát” từ chính quyền thửa đất này cho cụ U hoặc “hộ” cụ U, nên cụ U hay “hộ” cụ U mới có đất này.

Trường hợp có tài liệu, chứng cứ rõ ràng là dù nhà đất do cụ U, cụ K tạo lập, nhưng khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận các cụ tự nguyện đưa nhà đất từ tài sản của hai cụ thành tài sản của chung của các thành viên trong hộ, khi đó nhà đất là tài chung của các thành viên trong hộ và chỉ xác định thành viên trong hộ tại thời điểm làm thủ tục cấp giấy chứng nhận.

Mặt khác, riêng nội dung đoạn 11 trong phần “nhận định của tòa án” cũng có thể xuất hiện nguy cơ phát sinh thêm vấn đề mới. Nếu ông T1 có yêu cầu đến phần di sản đang tranh chấp là quyền sử dụng đất và ngôi nhà 5 gian, tài sản khác trên đất thửa 325, thì các đương sự khác có thể yêu cầu liên quan đến phần tài sản của hai cụ trước khi đi vùng kinh tế mới để lại cho ông T1 (vợ là bà C3),  ông D1 (vợ là bà T2). Khi vợ chồng ông D1 rời đi có lẽ là gia đình ông T1 đang quản lý. Không rõ hai cụ đã cho (những ai) tài sản (nhà đất) này chưa? Đã có căn cứ xác định đất đó của ai?

Nếu các bên đương sự có đặt ra các nội dung mới khi thụ lý, giải quyết lại từ sơ thẩm thì phải thu thập tài liệu, chứng cứ và tùy theo tài liệu, chứng cứ để có quyết định phù hợp.

Do đó, trước khi xét xử lại từ sơ thẩm cần làm rõ các vấn đề mà các bên đã yêu cầu trước đây, và cả vấn đề khi thụ lý lại từ sơ thẩm đương sự mới yêu cầu (nếu có).

Trường hợp thụ lý, giải quyết lại mà không thu thập đày đủ, không làm rõ các vấn đề mà các bên nêu ra, hồ sơ tiếp tục tồn tại các mâu thuẫn sẽ dẫn đến việc xử lại có nguy cơ tiếp tục phạm sai lầm là rất cao, đặc biệt là do tài liệu chưa được thu thập đày đủ, còn tồn tại các mâu thuẫn thì nguy cơ các cấp tòa án nhận thức khác nhau, xét xử khác nhau, vụ án chưa biết khi nào mới kết thúc.

 

TAND tỉnh Quảng Ngãi xét xử vụ án dân sự – Ảnh: Cẩm Linh/ VKSND QN

[1] Điều 623. Thời hiệu thừa kế (sửa đổi)

  1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
  2. a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
  3. b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
  4. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
  5. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

[2] Điều 688.Điều khoản chuyển tiếp (sửa đổi)

  1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau:
  2. a) Giao dịch dân sự chưa được thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với quy định của Bộ luật này thì chủ thể giao dịch tiếp tục thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11, trừ trường hợp các bên của giao dịch dân sự có thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung nội dung, hình thức của giao dịch để phù hợp với Bộ luật này và để áp dụng quy định của Bộ luật này.

Giao dịch dân sự đang được thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11;

  1. b) Giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật này;
  2. c) Giao dịch dân sự được thực hiện xong trước ngày Bộ luật này có hiệu lực mà có tranh chấp thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 để giải quyết;
  3. d) Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.
  4. Không áp dụng Bộ luật này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ việc mà Tòa án đã giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự trước ngày Bộ luật này có hiệu lực.”

TƯỞNG DUY LƯỢNG ( Nguyên Phó Chánh án TANDTC)