.jpg) 
 Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam
Bài viết phân tích một số quy định về tài sản hình thành trong tương lai tại Việt Nam hiện nay và kinh nghiệm một số quốc gia để đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản hình thành trong tương lai trong việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và bảo đảm an toàn pháp lý.
Đặt vấn đề
Tài sản hình thành trong tương lai (TSHTTTL) là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, là cơ sở để xây dựng một xã hội Việt Nam sáng tạo, hiện đại, làm nguồn lực cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước[1]. Loại tài sản này đặt ra nhiều thách thức bên cạnh vai trò thúc đẩy sự phát triển tích cực của nó, một trong số đó là việc sử dụng TSHTTTL để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Pháp luật Việt Nam đã ghi nhận, song, vẫn chưa có quy định riêng biệt cho việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng loại tài sản này mà vẫn áp dụng chung các quy định đối với tài sản thông thường. Xuất phát từ việc bản chất của TSHTTTL khá đặc biệt, việc áp dụng các quy định tương tự như đối với tài sản thông thường gây ra nhiều hạn chế và bất cập khi áp dụng vào thực tiễn.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ từ lâu đã được hiểu một cách rộng rãi là một biện pháp “dự phòng” mà hai bên đã thỏa thuận từ trước nhằm thông qua đó đặt ra trách nhiệm đối với việc thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ của các bên trong quan hệ dân sự. Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 không quy định về định nghĩa của “biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” mà chỉ liệt kê các biện pháp ấy[2]. Tuy vậy, có thể hiểu rằng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đều nhằm hướng tới bảo đảm cho một nghĩa vụ chính được thực hiện, đồng thời xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ dân sự đó.
Ý tưởng về TSHTTTL không phải là một điều quá mới mẻ mà đã manh nha xuất hiện ở BLDS năm 1999, nhưng nó lại chỉ được quy định bó hẹp lại ở giao dịch với biện pháp bảo đảm thế chấp[3] và trong lĩnh vực ngân hàng (chỉ áp dụng cho tài sản hình thành từ vốn vay). Nhờ sự phát triển của trình độ lập pháp, mà tại BLDS năm 2015 mặc dù vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể về “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng TSHTTTL” được đưa ra, nhưng với tâm lý cởi mở hơn, TSHTTTL đã có thể trở thành đối tượng là tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ rộng rãi hơn[4].
Từ đó, có thể rút ra định nghĩa: “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai là việc một bên dùng tài sản được hình thành từ vốn vay; tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm; tài sản đã hình thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp luật để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và không áp dụng đối với quyền sử dụng đất”.
1. Kinh nghiệm quốc tế về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai
1.1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
Về cơ bản, Hoa Kỳ hiện đang có hai hệ thống quy phạm riêng biệt điều chỉnh các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho động sản là Điều 9 Bộ quy tắc Thương mại thống nhất của Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code)[5] về giao dịch bảo đảm (sau đây gọi là UCC9) và cho bất động sản là Đạo luật thống nhất về lợi ích bảo đảm đối với đất đai (Uniform Land Security Interest Act)[6] của Hoa Kỳ (sau đây gọi là ULSA). Có thể thấy, khi áp dụng biện pháp bảo đảm thì tùy vào thuộc tính của tài sản mà việc lựa chọn áp dụng văn bản pháp luật cũng khác nhau.
Nhìn chung, theo pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Hoa Kỳ, phạm vi tài sản bảo đảm được quy định rất rộng, không phân biệt là tài sản vô hình, tài sản hữu hình, tài sản hiện có hay TSHTTTL[7]. Nguyên nhân là bởi quốc gia này sử dụng khái niệm “lợi ích bảo đảm” (security insecure) gắn chặt với tài sản bảo đảm mà không quy định cụ thể các biện pháp bảo đảm, do đó việc áp dụng còn được mở rộng hơn nữa.
UCC9 không giải thích về khái niệm của “lợi ích bảo đảm”, tuy nhiên New Zealand và một số bang của Canada đã cụ thể hóa khái niệm này trong Luật về bảo đảm của mình. Theo đó, “lợi ích bảo đảm” nói ngắn gọn là tất cả những “gì” có giá trị và không phụ thuộc vào hình thức (tên gọi) giao dịch hay nhân thân của người có quyền với tài sản bảo đảm[8]. Với tư duy lập pháp coi lợi ích là gốc của mọi giao dịch nên phạm vi tài sản bảo đảm không bị giới hạn về mặt áp dụng, kể cả TSHTTTL.
Ngoài ra, khoản 12 tiết 9-102 của UCC9 có đưa ra khái niệm “tài sản bảo đảm”, trong đó có một thuật ngữ rất đáng chú ý đó là “khoản lợi” (proceeds) thu được từ những tài sản mà lợi ích bảo đảm gắn liền. Theo đó, thuật ngữ “khoản lợi” có thể hiểu theo nghĩa rộng không dừng lại ở khoản tiền thu được từ việc bán tài sản bảo đảm, mà còn kể cả những tài sản khác hình thành từ việc bán tài sản bảo đảm này.
Đối với tài sản bảo đảm là bất động sản, tại khoản 20 Mục III của ULSIA có đưa ra khái niệm của bất động sản: “Là bất cứ tài sản hoặc lợi ích nào ở trong, ở trên hoặc ở dưới đất, bao gồm cả khoáng sản, công trình kiến trúc, bất động sản do dụng đích, hoặc bất cứ thứ gì mà theo thói quen, theo thông lệ hoặc theo quy định của pháp luật được chuyển nhượng kèm theo đất đai dù không được mô tả trong hợp đồng mua bán hoặc chứng thư chuyển nhượng, và, nếu phù hợp với văn cảnh, cả đất có liên quan đến lợi ích bảo đảm. “Bất động sản” bao gồm cả tiền thuê, lợi ích của chủ đất hoặc chủ nhà, và lợi ích nằm trong lợi ích chung của cộng đồng, trừ trường hợp các luật khác coi lợi ích đó là động sản”. Cũng tại khoản 3 Mục III của ULSA: “Tài sản bảo đảm là bất động sản là đối tượng của lợi ích bảo đảm”.
Như vậy, tài sản bảo đảm trong 2 văn bản pháp luật của Hoa Kỳ là UCC9 và ULSA đều không có quy định cụ thể bao gồm TSHTTTL, tuy nhiên tính khả thi của việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng TSHTTTL gần như là hiển nhiên với quan điểm “lợi ích là gốc của mọi giao dịch” của mình.
Pháp là một quốc gia có hệ thống pháp luật dân sự phát triển và đã đưa ra các quy định rất chi tiết về việc sử dụng TSHTTTL làm tài sản bảo đảm. Các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng TSHTTTL chủ yếu được thể hiện trong BLDS Pháp cụ thể: Tại Điều 2284 BLDS Pháp có quy định: “Người nào bị ràng buộc vào một nghĩa vụ cá nhân thì phải thực hiện nghĩa vụ đó bằng tất cả tài sản của mình, bao gồm động sản và bất động sản, hiện có và sẽ có trong tương lai”[9]. Tại Điều 2130 BLDS Pháp (Sắc lệnh 55-22 ngày 4/1/1955) có quy định: “Những tài sản chưa có thì không thể đem thế chấp. Tuy nhiên, nếu những tài sản hiện có và chưa đem cầm cố không đủ để bảo đảm nghĩa vụ, người có nghĩa vụ thừa nhận sự thiếu hụt đó có thể thỏa thuận là từng tài sản mình có sau này sẽ dùng để bảo đảm nghĩa vụ”[10].
Từ đó, pháp luật của Pháp đem lại một số kinh nghiệm đáng chú ý cho Việt Nam:
Thứ nhất, BLDS Pháp quy định tài sản bảo đảm một cách rõ ràng và chặt chẽ hơn so với BLDS Việt Nam. BLDS Pháp thừa nhận TSHTTTL được phép giao dịch và cũng được xem như một loại tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự[11]. Tuy nhiên, trong BLDS Pháp, chúng ta cũng không thấy có định nghĩa như thế nào là TSHTTTL nhưng trong phần hợp đồng có quy định về việc mua bán công trình hình thành trong tương lai[12]. Từ đó, chúng ta thấy được Pháp thừa nhận chế định TSHTTTL như một loại tài sản trong các giao dịch dân sự.
Chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong BLDS Việt Nam quy định về khái niệm tài sản bảo đảm chưa thật sự cụ thể và chưa bao hàm được hết các khái niệm về tài sản tại các Điều 105, Điều 108, dễ gây ra sự nhầm lẫn và hoài nghi liệu động sản và bất động sản hình thành trong tương lai có thể được dùng làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hay không? Việc thiếu quy định cụ thể và phải dẫn chiếu nhiều điều khoản dẫn đến cách hiểu không thống nhất về tài sản bảo đảm, gây khó khăn trong giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo đảm.
Thực tế, nhiều vụ tranh chấp về hợp đồng tín dụng có liên quan đến TSHTTTL đã phát sinh do sự thiếu thống nhất trong cách hiểu về quy định này. Chẳng hạn, tại Việt Nam, đã có những trường hợp ngân hàng đồng ý thế chấp căn hộ chung cư đang xây dựng, nhưng khi chủ đầu tư không thể hoàn thiện dự án, Tòa án lại có cách hiểu khác về hiệu lực của hợp đồng thế chấp, dẫn đến khó khăn trong xử lý tài sản bảo đảm. Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP[13] quy định về tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tuy nhiên cũng mang tính chất liệt kê và bổ sung thêm quy định tại khoản 3 Điều 295 BLDS 2015.
Thứ hai, theo quy định tại Điều 2284 BLDS Pháp, ta có thể thấy BLDS Pháp cho phép sử dụng cả động sản và bất động sản hình thành trong tương lai làm tài sản bảo đảm cụ thể tại các Điều 2419, 2420 BLDS Pháp như sau:
BLDS Pháp quy định về nguyên tắc chỉ có thể thế chấp bằng bất động sản hiện có[14]. Tuy nhiên, bất động sản hình thành trong tương lai có thể được dùng để thế chấp trong các trường hợp và theo những điều kiện sau đây:
Một là, trong trường hợp không sở hữu hoặc có sở hữu bất động sản chưa bị ràng buộc bởi bất kỳ biện pháp bảo đảm nào nhưng không đủ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, người có nghĩa vụ có thể thỏa thuận rằng từng bất động sản mình có sau này sẽ được dùng để thanh toán nghĩa vụ;
Hai là, trong trường hợp bất động sản hiện có và đang được dùng để thế chấp bị hư hại hoàn toàn hoặc giảm sút giá trị đến mức không đủ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, người có nghĩa vụ cũng có thể thỏa thuận tương tự như trên, nhưng người có quyền vẫn có thể khởi kiện yêu cầu thực hiện ngay nghĩa vụ;
Ba là, trong trường hợp một người có quyền xây dựng công trình trên đất của người khác, người đó có thể thế chấp công trình dù công việc xây dựng mới bắt đầu hoặc chỉ là dự án; trong trường hợp công trình thế chấp bị phá bỏ, quyền thế chấp sẽ đương nhiên được chuyển sang những công trình mới xây dựng trên cùng địa điểm với công trình bị phá bỏ[15].
Như vậy, Pháp chấp nhận việc các bên sử dụng TSHTTTL để bảo đảm các nghĩa vụ nhưng không áp dụng mặc nhiên, vô điều kiện cho mọi biện pháp bảo đảm, tùy trường hợp mà có quy định cụ thể, hạn chế rõ ràng, thích hợp và phải thỏa mãn những yêu cầu nhất định mới được áp dụng[16].
Quy định này có sự khác biệt so với BLDS Việt Nam và các văn bản pháp lý liên quan. Cụ thể, BLDS Việt Nam không quy định về việc bất động sản hình thành trong tương lai có thể là tài sản bảo đảm, tại khoản 4 Điều 10 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định: “Việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai không áp dụng đối với quyền sử dụng đất”[17].
Không chỉ có thể thế chấp TSHTTTL để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Pháp còn cho phép sử dụng biện pháp cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với loại tài sản này. Cụ thể tại Điều 2333 Lệnh số 2006-346 ngày 23 tháng 3 năm 2006 có quy định: “Gage (cầm cố) là một thỏa thuận theo đó người làm thỏa thuận trao cho chủ nợ quyền được ưu tiên so với các chủ nợ khác dựa trên giá trị của một động sản hoặc một tập hợp động sản hữu hình tồn tại trong hiện tại hoặc tương lai. Các quyền đòi nợ được bảo đảm có thể tồn tại trong hiện tại hoặc tương lai; trong trường hợp sau này quyền đó phải xác định được”[18]. Tiếp đó, tại Điều 2355 Sắc lệnh 2006-346 ngày 23 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ Pháp quy định: “Nantissement (cầm cố) là việc sử dụng một động sản vô hình hoặc một tập hợp các động sản vô hình tồn tại trong hiện tại hoặc tương lai, nhằm bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ”[19].
Việc cho phép thế chấp, cầm cố bất động sản hình thành trong tương lai đem lại những lợi ích tích cực đến nền kinh tế có thể kể đến như giúp chủ đầu tư vay vốn hoàn thiện dự án, giảm áp lực tài chính và bảo đảm tiến độ thi công. Nhờ đó, ngân hàng có thể cung cấp các gói vay mua nhà sớm, giúp người dân tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển minh bạch, bền vững.
Như vậy, việc cho phép bất động sản hình thành trong tương lai là tài sản bảo đảm theo BLDS Pháp tạo điều kiện để phát triển thị trường bất động sản bền vững, tăng cường khả năng huy động vốn và bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia giao dịch. Đây là một kinh nghiệm quan trọng để BLDS Việt Nam có thể điều chỉnh, hoàn thiện khung pháp lý nhằm thúc đẩy môi trường kinh doanh và đầu tư.
Việc quy định bất động sản hình thành trong tương lai là tài sản bảo đảm là cần thiết. Tuy nhiên, cần nghiên cứu các điều kiện và trường hợp áp dụng phù hợp với bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội tại Việt Nam. Điều này nhằm hạn chế rủi ro liên quan đến tính chất chưa hoàn thành của tài sản, khó khăn trong đăng ký và xác định quyền ưu tiên, đồng thời bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên trong giao dịch bảo đảm.
2. Một số bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai
Bảo đảm nghĩa vụ bằng TSHTTTL lần đầu tiên được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam là tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP, cụ thể là quy định cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay[20]. Hiện nay, tại Điều 295 BLDS 2015 về tài sản bảo đảm quy định cũng bao gồm TSHTTTL. Đồng thời, trong Điều 8 Nghị định 21/2021/NĐ-CP quy định tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là “Tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan cấm mua bán, cấm chuyển nhượng hoặc cấm chuyển giao khác về quyền sở hữu tại thời điểm xác lập hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm;…”. Có thể thấy hiện nay, TSHTTTL được ghi nhận và cho phép sử dụng rộng rãi gần như tương tự tài sản thông thường. Theo nghiên cứu của nhóm tác giả, thực tiễn trong 9 biện pháp bảo đảm (chia ra làm biện pháp bảo đảm bằng tài sản: cầm cố, thế chấp, ký cược, ký quỹ, đặt cọc, bảo lưu quyền sở hữu, cầm giữ tài sản và biện pháp bảo đảm không bằng tài sản: bảo lãnh, tín chấp) các biện pháp có thể sử dụng TSHTTTL hiện nay bao gồm: cầm cố, thế chấp, đặt cọc, bảo lãnh; trong đó thế chấp là biện pháp bảo đảm mà TSHTTTL được sử dụng nhiều nhất[21].
Tuy nhiên, một số bất cấp được thể hiện rõ ràng thông qua thực tiễn quy định và thi hành như sau:
Một là, bất cập trong việc xác định TSHTTTL. Hiện nay, chưa có định nghĩa cụ thể, rõ ràng cho TSHTTTL thể hiện bản chất của loại tài sản này (khái niệm hiện nay trong BLDS được tạo bằng phương pháp liệt kê theo phân loại). Điều này dẫn đến có sự mâu thuẫn trong quy định giữa luật chung và luật chuyên ngành như giữa BLDS 2015 và Luật Nhà ở 2023 về khái niệm và phân loại TSHTTTL, đặc biệt trong trường hợp nhà ở đã hoàn thiện nhưng chưa xác lập quyền sở hữu - gây khó khăn trong việc xác định đối tượng bảo đảm[22].
Hai là, pháp luật Việt Nam chưa có quy định riêng khi sử dụng TSHTTTL để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà áp dụng pháp luật như tài sản thông thường như về định giá tài sản, công chứng chứng thực,... Tuy nhiên, với đặc điểm đặc trưng là chưa xác lập quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản tại thời điểm xác lập giao dịch thậm chí là tài sản được dùng để bảo đảm chưa hình thành thì có những quy định đối với tài sản thông thường gặp khó khăn đáng kể khi áp dụng trực tiếp đối với TSHTTTL. Có thể kể đến như trong việc định giá, thi hành án đối với tài sản hình thành trong tương lai (chưa xây dựng các quy định về trình tự, thủ tục, yêu cầu định giá cũng như chưa xây dựng các quy định riêng biệt trong thi hành án đối với loại tài sản này).
Ba là, thiếu cơ chế pháp lý rõ ràng về xác lập quyền ưu tiên đối với TSHTTTL. Pháp luật Việt Nam hiện chưa có quy định cụ thể và đầy đủ về việc bên nhận bảo đảm được xác lập quyền ưu tiên đối với TSHTTTL trước khi tài sản hình thành, dẫn đến rủi ro về tranh chấp ưu tiên khi có nhiều bên cùng tham gia giao dịch với tài sản này. Điều này khác với mô hình của Hoa Kỳ, nơi quyền ưu tiên có thể được đăng ký từ trước khi tài sản hình thành trên cơ sở nguyên tắc “lợi ích bảo đảm”.
Bốn là, thiếu quy định xử lý trách nhiệm và chế tài đối với hành vi vi phạm trong giao dịch bảo đảm TSHTTTL. Hệ thống pháp luật hiện hành còn thiếu các chế tài cụ thể đối với các hành vi như gian lận trong định giá tài sản, cung cấp thông tin sai lệch hoặc vi phạm cam kết trong quá trình giao dịch. Đồng thời, chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm pháp lý của tổ chức tín dụng trong việc thẩm định, đánh giá rủi ro khi nhận TSHTTTL làm tài sản bảo đảm, dẫn đến thiếu kiểm soát và tiềm ẩn rủi ro cho cả bên nhận và bên cung cấp tín dụng.
3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai
TSHTTTL đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng cấp vốn, thúc đẩy dòng chảy tài chính và hỗ trợ phát triển thị trường bất động sản. Tuy nhiên, khung pháp lý về TSHTTTL tại Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ và thiếu các quy định cụ thể về giao dịch bảo đảm liên quan đến loại tài sản này. Do đó, việc hoàn thiện quy định pháp luật nhằm tăng tính minh bạch, hiệu quả và an toàn pháp lý là hết sức cần thiết.
Thứ nhất, cần xây dựng khung pháp lý rõ ràng về TSHTTTL bằng cách định nghĩa cụ thể trong BLDS, phân loại TSHTTTL thành động sản và bất động sản theo tiêu chí như tính chất vật lý, mục đích sử dụng và khả năng chuyển nhượng. Đồng thời, cần quy định chi tiết về thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với TSHTTTL nhằm hạn chế tranh chấp, bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia giao dịch. Để bảo đảm tính minh bạch và an toàn pháp lý, cần quy định chi tiết về điều kiện, thủ tục thế chấp TSHTTTL, đặc biệt với bất động sản hình thành trong tương lai, đồng thời hướng dẫn rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch.
Thứ hai, một trong những vấn đề lớn hiện nay là cơ chế đăng ký bảo đảm TSHTTTL chưa được thống nhất và minh bạch. Vì vậy, cần hoàn thiện hệ thống đăng ký tập trung, liên thông với các cơ quan như ngân hàng và cơ quan đăng ký đất đai để nâng cao tính công khai và giảm thiểu rủi ro pháp lý. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan đăng ký trong việc xác minh thông tin TSHTTTL nhằm bảo đảm quyền lợi cho bên nhận bảo đảm.
Thứ ba, học hỏi kinh nghiệm từ quốc tế cũng là một giải pháp quan trọng. Việt Nam có thể học hỏi từ Hoa Kỳ trong việc áp dụng nguyên tắc “lợi ích bảo đảm”, cho phép bên nhận thế chấp có quyền ưu tiên đối với TSHTTTL ngay cả khi tài sản chưa hình thành. Trong khi đó, mô hình của Pháp về thế chấp bất động sản hình thành trong tương lai có thể áp dụng trong việc cấp phép thế chấp các dự án nhà ở thương mại tại Việt Nam. Từ những kinh nghiệm trên, Việt Nam có thể nghiên cứu, điều chỉnh để phù hợp với điều kiện thực tế của mình.
Thứ tư, cần bổ sung chế tài đối với các hành vi vi phạm quy định về bảo đảm TSHTTTL. Việc xử phạt các hành vi gian lận trong định giá TSHTTTL, hành vi cung cấp thông tin không chính xác hoặc vi phạm cam kết trong giao dịch bảo đảm cần được quy định cụ thể. Đồng thời, trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc đánh giá rủi ro khi nhận TSHTTTL làm tài sản bảo đảm cũng cần được nâng cao.
Kết luận
Có thể thấy TSHTTTL là một trong những loại tài sản có xu hướng phát triển mạnh và gia tăng trong các giao lưu dân sự. Tuy nhiên, các quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam còn nhiều điểm thiếu sót, chưa phù hợp với thực tiễn dẫn đến nhiều khó khăn trong việc áp dụng. Thông qua quá trình phân tích một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm một số quốc gia về vấn đề này, nhóm tác giả đề xuất một số kiến nghị với mong muốn hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
3. Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
4. Thông tư số 31/2024/TT-BTC ngày 16/5/2024 của Bộ Tài chính quy định về phân loại tài sản có trong hoạt động của ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
5. Bộ luật Thương mại Thống nhất năm 1950 (UCC).
6. Luật An ninh Đất đai Thống nhất năm 1980 (ULSA).
7. Personal Property Securities Act 1999.
8. Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804.
9. Chính phủ Pháp, Sắc lệnh 2006-346, năm 2006.
10. Hoàng Hà Tuyên, Pháp luật về tài sản hình thành trong tương lai và thực tiễn áp dụng, Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, 2011, tr.13.
11. Lê Thị Huyền Trân, Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai trong pháp luật Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, 2015, tr.55.
12. Tôn Lê Quý, Thực hiện pháp luật về thế chấp tài sản hình thành trong tương lai trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2018, tr.12.
13. Nguyễn Hà Phương Anh - Lê Thị Hiếu Hoài - Nguyễn Thị Thanh Tuyền, Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai, https://tapchitoaan.vn/hoan-thien-phap-luat-ve-bao-dam-thuc-hien-nghia-vu-bang-tai-san-hinh-thanh-trong-tuong-lai12430.html.
14. Phùng Quốc Hiển, Đổi mới tư duy, nhận thức và thể chế hóa quyền tài sản vô hình và tài sản hình thành trong tương lai, Tạp chí Cộng Sản, https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/doi-moi-tu-duy-nhan-thuc-va-the-che-hoa-quyen-tai-san-vo-hinh-va-tai-san-hinh-thanh-trong-tuong-lai.
15. VIB ONLINE (2006), Báo cáo tổng hợp kinh nghiệm của một số quốc gia về pháp luật về giao dịch bảo đảm, https://vibonline.com.vn/bao_cao/bao-cao-tong-hop-kinh-nghiem-cua-mot-so-quoc-gia-ve-phap-luat-ve-giao-dich-bao-dam.
[1] Phùng Quốc Hiển, Đổi mới tư duy, nhận thức và thể chế hóa quyền tài sản vô hình và tài sản hình thành trong tương lai, https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/doi-moi-tu-duy-nhan-thuc-va-the-che-hoa-quyen-tai-san-vo-hinh-va-tai-san-hinh-thanh-trong-tuong-lai, truy cập ngày 10/9/2020.
[2] Điều 292 BLDS năm 2015.
[3] khoản 7 Điều 2 Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
[4] Khoản 1 Điều 8 Nghị định 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
[5] Luật Thương mại tại Hoa Kỳ chủ yếu được điều chỉnh bởi Bộ luật Thương mại Thống nhất (Uniform Commercial Code - UCC). UCC là một bộ luật mẫu được đồng sáng tạo và sửa đổi bởi hai tổ chức phi chính phủ, Viện Luật Mỹ (American Law Institute - ALI) và Hội nghị Quốc gia về Ủy viên Luật Tiểu bang Thống nhất (National Conference of Commissioners on Uniform State Laws - NCCUSL) nhằm mục đích chuẩn hóa luật pháp và đảm bảo tính áp dụng trên toàn quốc.
[6] Luật An ninh Đất đai Thống nhất (Uniform Land Security Act - ULSA) được Hội nghị Quốc gia về Luật Tiểu bang Thống nhất (National Conference on Uniform State Laws) phê duyệt và đề xuất ban hành tại tất cả các tiểu bang vào tháng 8 năm 1985 là một bộ luật toàn diện về tất cả các hình thức quyền lợi tài sản đảm bảo được thỏa thuận liên quan đến bất động sản. ULSA chứa đựng các quy định toàn diện về việc thành lập thỏa thuận đảm bảo, phạm vi của các quyền lợi tài sản đảm bảo được tạo ra, bao gồm các quy định liên quan đến khoản vay bổ sung trong tương lai và tài sản thu được sau này, quyền của các bên và các quy định về việc thực hiện quyền thế chấp tài sản đảm bảo.
[7] VIB ONLINE (2006), Báo cáo tổng hợp kinh nghiệm của một số quốc gia về pháp luật về giao dịch bảo đảm, https://vibonline.com.vn/bao_cao/bao-cao-tong-hop-kinh-nghiem-cua-mot-so-quoc-gia-ve-phap-luat-ve-giao-dich-bao-dam, truy cập ngày 23/01/2025.
[8] Khoản 1 Điều 17 Personal Property Securities Act 1999 New Zealand.
[9] Điều 2284 BLDS Pháp.
[10] Điều 2130 BLDS Pháp (Sắc lệnh 55-22 ngày 04/01/1955).
[11] Lê Thị Huyền Trân, Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai trong pháp luật Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2015, tr.55.
[12] Hoàng Hà Tuyên, Pháp luật về tài sản hình thành trong tương lai và thực tiễn áp dụng, Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2011, tr.13.
[13] Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
[14] Điều 2419 BLDS Pháp.
[15] Điều 2420 BLDS Pháp.
[16] Lê Thị Huyền Trân, Tlđd(11), tr.55.
[17] Khoản 4 Điều 10 Nghị định 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
[18] Điều 2333 Sắc lệnh 2006-346.
[19] Điều 2355 Sắc lệnh 2006-346.
[20] Tôn Lê Quý, Thực hiện pháp luật về thế chấp tài sản hình thành trong tương lai trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện Hàn Lân Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2018, tr.12.
[21] Nguyễn Hà Phương Anh - Lê Thị Hiếu Hoài - Nguyễn Thị Thanh Tuyền, Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai, https://tapchitoaan.vn/hoan-thien-phap-luat-ve-bao-dam-thuc-hien-nghia-vu-bang-tai-san-hinh-thanh-trong-tuong-lai12430.html, truy cập ngày 12/3/2025.
[22] Nguyễn Hà Phương Anh - Lê Thị Hiếu Hoài - Nguyễn Thị Thanh Tuyền, Tlđd(21).
Ảnh: nguồn Internet.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-   .jpg)  Trao đổi về bài viết “Bàn về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do “nhầm lẫn, giả tạo” trong giao dịch dân sự”
-     Cuộc thi hòa giải thương mại Việt Nam – Vietnam mediation moot (V-MED 2025) đã thành công tốt đẹp
-   .jpg)  Bàn về áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” trong trường hợp bị cáo không thừa nhận phạm tội
-   .jpg)  Trình tự, thủ tục thẩm định tại chỗ đối với bất động sản trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa án
-     Tổng Bí thư Tô Lâm: “Nhà nước phải bảo đảm quyền sử dụng đất công bằng, hiệu quả cho mọi người dân”
 
 _.jpg) 
  
 
Bình luận