Bảo vệ người không có khả năng lao động bền vững - Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Bảo vệ người không có khả năng lao động bền vững được hiểu là ngăn chặn mọi sự xâm hại có thể xảy ra đối với người lao động trong quá trình tham gia vào quan hệ lao động. Đó không chỉ là mục tiêu hướng đến mà còn là nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất trong pháp luật lao động của mọi quốc gia
Đặt vấn đề
Bảo vệ người lao động (NLĐ) luôn là vấn đề tất yếu và quan trọng của tất cả các quốc gia trên thế giới, nhất là đối với những quốc gia đang trong quá trình hội nhập, và đang phát triển như Việt Nam. Bởi lẽ, trong mối quan hệ lao động, NLĐ luôn ở vị trí yếu thế hơn, phụ thuộc và chịu sự quản lý, điều hành giám sát của người sử dụng lao động (NSDLĐ) và có thể bị phân biệt đối xử, ngược đãi, cưỡng bức... Đối với NLĐ không có khả năng lao động bền vững thường phải đối mặt với nhiều khó khăn như thiếu thốn về quyền lợi, lương thấp và môi trường làm việc không an toàn. Vì vậy, vấn đề bảo vệ NLĐ không có khả năng lao động bền vững là hoàn toàn thiết thực và cần thiết đối với xã hội hiện nay. Bài viết tìm hiểu và phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ người không có khả năng lao động bền vững, trên cơ sở đó, nhóm tác giả hướng tới việc đưa ra những vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện pháp luật, góp phần giúp cải thiện tình trạng, đem tới một tương lai tốt đẹp hơn cho nhóm NLĐ này.
1. Định nghĩa về người lao động không có khả năng lao động bền vững
Tại khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 2019 có quy định: “Người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động. Độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi, trừ trường hợp quy định tại Mục 1 Chương XI của Bộ luật này”.
NLĐ không có khả năng lao động bền vững là một bộ phận của NLĐ, là những người có thể làm việc, nhưng do những hạn chế nhất định về khả năng lao động hoặc điều kiện sống, họ không thể duy trì được một công việc bền vững và ổn định. Điều này có thể do nhiều yếu tố khác nhau tác động, cả từ phía cá nhân và môi trường làm việc.
Theo Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 của Liên hợp quốc thì quy định của Công ước này bắt buộc các quốc gia thành viên phải tạo điều kiện, giúp đỡ và bảo hộ đối với các bà mẹ trước và sau khi sinh con, mọi trẻ em và thanh thiếu niên không phụ thuộc vào xuất thân hoặc các điều kiện khác.
Từ đó, nhóm tác giả rút ra định nghĩa: “Người lao động không có khả năng lao động bền vững là những người có thể làm việc, nhưng do những hạn chế nhất định về khả năng lao động hoặc điều kiện sống, họ không thể duy trì được một công việc bền vững và ổn định, bao gồm những người khuyết tật, trẻ em và lao động cơ nhỡ”.
Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng và các quy định của pháp luật về bảo vệ NLĐ không có khả năng lao động bền vững, đồng thời tìm ra những vướng mắc để từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ NLĐ không có khả năng lao động bền vững, nâng cao hiệu quả của việc thực thi pháp luật trên thực tế cũng vô cùng cấp thiết.
2. Quy định của Pháp luật về bảo vệ người lao động không có khả năng lao động bền vững
Tuyên ngôn Quốc tế về Quyền con người năm 1948 (UDHR) khẳng định, quyền lao động là một trong những quyền cơ bản của con người, dù bất kể là NLĐ khuyết tật, trẻ em hay lao động cơ nhỡ - sau đây gọi tắt là NLĐ không có khả năng lao động bền vững.
Công ước số 138 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về tuổi lao động tối thiểu năm 1973 xác định: “Đối với bất kỳ công việc hoặc nghề nghiệp nào mà do tính chất hoặc điều kiện tiến hành có thể có hại cho sức khỏe, sự an toàn hoặc đạo đức của một người thì mức tuổi lao động tối thiểu không được dưới 18 tuổi”. Theo Công ước Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em, người dưới 18 tuổi được xem là trẻ em. Tuy nhiên, pháp luật một số quốc gia có thể quy định độ tuổi được xem là trẻ em sớm hơn. Ví dụ, pháp luật của Nepal quy định, bất kỳ ai dưới 16 tuổi đều được xem là trẻ em; pháp luật của Singapore quy định, trẻ em nghĩa là bất kỳ ai dưới 14 tuổi[1]… Theo quan điểm của nhóm tác giả, quyền lao động của trẻ em là quyền của trẻ em được tự do lựa chọn một công việc phù hợp với độ tuổi, nhu cầu và có thể trang trải cuộc sống bằng công việc đó trong môi trường làm việc công bằng và thuận lợi.
Tại Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 đã xác định trẻ em là người dưới 16 tuổi. Ngoài ra, tại Điều 143 BLLĐ năm 2019 quy định: “Người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi chỉ được làm công việc nhẹ theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành” và “người chưa đủ 13 tuổi chỉ được làm các công việc nhẹ thỏa mãn quy định tại khoản 3 Điều 145”.
Có thể thấy rằng, khi Việt Nam đang ngày càng tham gia nhiều Công ước quốc tế hơn thì việc điều chỉnh, sửa đổi các quy định của pháp luật hiện hành để phù hợp hơn với các Công ước quốc tế là rất cần thiết. Cụ thể, BLLĐ năm 2019 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của pháp luật về lao động, cụ thể là trường hợp lao động chưa thành niên là người dưới 15 tuổi.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, BLLĐ năm 2019 xác định chính sách của Nhà nước về lao động nói chung, trong đó quy định nguyên tắc bình đẳng và các chế độ, chính sách để bảo vệ NLĐ những đồ vật thuộc về cần được bảo vệ như lao động nữ, NLĐ cao tuổi, lao động chưa thành niên và lao động là người khuyết tật (NKT). Theo BLLĐ năm 2019, quyền lao động và việc làm của NKT không được ghi nhận mà còn được Nhà nước hỗ trợ và bảo đảm thực hiện. Bên cạnh đó, BLLĐ năm 2019 cũng quy định chính sách khuyến khích, ưu đãi dành cho NSDLĐ trong việc tạo việc làm và sử dụng lao động là NKT. Ngoài Hiến pháp và BLLĐ, chính sách của Nhà nước đối với lao động là NKT vẫn được thể hiện bằng các quy định về quyền và nghĩa vụ của NKT[2]; sách chính của Nhà nước đối với NKT[3] và các vấn đề dạy nghề và việc làm[4] trong Luật NKT năm 2010. Với những quy định trong Hiến pháp, BLLĐ và Luật NKT có thể khẳng định, chính sách của Việt Nam đối với lao động là NKT là quán nhất, tiến bộ và phù hợp với quy định trong Công ước về quyền của NKT và Công ước số 159.
3. Thực trạng và bất cập của pháp luật hiện nay về người lao động không có khả năng lao động bền vững
3.1. Tình hình chung về người lao động không có khả năng lao động bền vững
Tính chung 9 tháng năm 2024, GDP ước tăng 6,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế 9 tháng năm 2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,20%, (đóng góp 5,37%), chỉ cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2020 trong giai đoạn 2020-2024 do chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi cơn bão số 3 trong tháng 9/2024 nên tăng trưởng thấp hơn cùng kỳ các năm trước[5].
Thực tế, mặc dù đã có những nỗ lực đáng kể, nhưng tình trạng lạm dụng, bạo hành và bóc lột sức lao động trẻ em trong khu vực kinh tế phi chính thức có xu hướng gia tăng và diễn biến ngày càng tinh vi ở Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác. Theo ước tính của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), tại Việt Nam có hơn một triệu trẻ em từ 5-17 tuổi tham gia lao động. Cuộc điều tra Quốc gia về Lao động trẻ em lần thứ hai cho thấy khoảng 5,3% trẻ em và người chưa thành niên trong độ tuổi này là lao động trẻ em, tương đương với hơn 1 triệu trẻ, trong đó có trên 520.000 trẻ phải làm việc trong những điều kiện nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm. Đặc biệt, có 40,6% trẻ trong nhóm này phải làm việc nhiều hơn 40 giờ mỗi tuần, buộc phải bỏ học và xa rời gia đình để làm các công việc như bán hàng rong, đi ăn xin, rửa bát và lau dọn quán[6].
Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở lạm dụng và bóc lột sức lao động, các em còn bị ép buộc phạm tội, vận chuyển hàng lậu, buôn bán hàng cấm để kiếm tiền, hoặc bị xâm hại tình dục hoặc phải đối mặt với những hành vi bạo lực nghiêm trọng.
Song song với tình trạng lao động trẻ em, Việt Nam cũng đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng liên quan đến NKT, khi họ phải vật lộn với cơ hội việc làm hạn chế. Tại Việt Nam hiện có hơn 7 triệu NKT, chiếm 7,06% dân số từ 2 tuổi trở lên. Tuy nhiên, NKT có việc làm chỉ chiếm 31,7% trong tổng số NKT trên toàn quốc[7]. Chẳng hạn như là nhiều NKT làm công việc thu gom rác hoặc bán hàng rong, với mức thu nhập hàng tháng chỉ đủ trang trải chi phí sinh hoạt tối thiểu. Họ thường phải làm việc trong điều kiện nặng nhọc, không có HĐLĐ chính thức, và không được hưởng các chế độ BHXH hay BHYT.
Ngoài ra, vấn đề hướng nghiệp, đào tạo nghề và tạo việc làm cho người cao tuổi ngày càng trở nên cấp thiết, đặc biệt trong bối cảnh dân số Việt Nam đang trải qua tốc độ già hóa nhanh. Theo báo cáo từ Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (UNFPA, 2019) tỷ lệ người già từ 60 tuổi tăng từ 8,1% dân số vào năm 1999, lên 8,6% và 10,2% vào năm 2009 và 2014. Với tốc độ này, dự báo đến năm 2035, tỷ lệ dân số người cao tuổi sẽ tiếp tục tăng lên tới 20%[8].
Chênh lệch giới cũng xuất hiện trong tỷ lệ thất nghiệp. Trong quý III và quý IV năm 2020, những phụ nữ vẫn có việc làm thường phải làm việc nhiều giờ hơn so với mức bình thường. Lựa chọn này của họ có thể xuất phát từ nhu cầu phải bù đắp các thu nhập bị mất trong quý II. Ngoài việc tham gia các hoạt động kinh tế gia tăng, phụ nữ cũng dành gần 30 giờ mỗi tuần cho việc nhà. Những yếu tố này cho thấy đại dịch có thể đã khiến cho gánh nặng kép của phụ nữ càng nặng nề hơn so với trước khi khủng hoảng y tế xảy ra.
3.2. Một số hạn chế còn tồn tại trong việc bảo vệ người lao động không có khả năng lao động bền vững
Hiện nay, Việt Nam chưa đưa ra định nghĩa pháp lý chính thức nào về lao động trẻ em nhưng trong pháp luật quốc tế, lao động trẻ em thường được hiểu là việc trẻ em và người chưa thành niên làm các công việc trái quy định pháp luật về lao động, tham gia lao động mà hoạt động lao động đó cản trở hoặc tác động tiêu cực đến sự phát triển thể chất, trí tuệ, nhân cách và sự phát triển toàn diện của các em. Có thể thấy, không phải công việc nào do trẻ em thực hiện cũng là lao động trẻ em. Vấn đề đặt ra là, khi trẻ em thực hiện các hoạt động kinh tế một cách hợp pháp và không vi phạm các quy định về lao động thì sẽ không bị coi là lao động trẻ em nhưng pháp luật hiện hành cũng chưa có khung pháp lý cụ thể để công nhận quyền và bảo vệ chủ thể này trong quan hệ lao động. Về phía trẻ em, sự mập mờ trong quy định của pháp luật khiến các em trở nên yếu thế khi tham gia vào các hoạt động kinh tế vì chưa có cơ chế rõ ràng để các em tự bảo vệ chính bản thân mình. Về phía NSDLĐ, điều này sẽ càng khiến cho NSDLĐ có ưu thế hơn và có thể tạo nhiều “quy luật” riêng để đối xử không công bằng với các lao động là trẻ em.
Thực tế cho thấy, cần có chính sách ưu đãi để thu hút các tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và sử dụng lao động tại chỗ, nhằm tạo việc làm cho các đối tượng này. Đồng thời, cần phát triển các mô hình dạy nghề và tạo việc làm; kết nối các đơn vị cung cấp dịch vụ liên quan đến việc làm và phục hồi khả năng lao động cho NKT tại các cơ sở dạy nghề, Trung tâm giới thiệu việc làm và doanh nghiệp…
4. Các nhân tố tác động và các biện pháp thực hiện pháp luật bảo vệ người lao động không có khả năng lao động bền vững
4.1. Các nhân tố tác động tới việc gia tăng tình trạng người không có khả năng lao động bền vững
Tỉ lệ người không có khả năng lao động bền vững ngày càng gia tăng tại Việt Nam. Mặc dù hiện nay, chưa có số liệu thống kê cụ thể về đối tượng này song đây là một vấn đề rất đáng được quan tâm.
Về mặt khách quan, tình trạng gia tăng tỷ lệ người không có khả năng lao động bền vững xuất phát từ những yếu tố sau:
Trước hết là do công nghệ và tự động hóa phát triển. Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ ngày càng chiếm nhiều ưu thế trên mọi lĩnh vực, nhất là trong thị trường lao động. Tỷ lệ máy móc cũng như các công trình trí tuệ nhân tạo ngày càng hỗ trợ đắc lực cho tất cả các ngành nghề trong xã hội. Theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong 5 năm tới sẽ có 1/3 công việc thay đổi tương đương với 40% lao động khó có khả năng đáp ứng yêu cầu mới nếu kỹ năng lao động không được nâng lên. Bên cạnh đó, theo Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội, thị trường lao động ngày càng cạnh tranh và thay đổi nhanh chóng kết hợp với sự phát triển của công nghệ và tự động hóa đã thay đổi nhiều ngành nghề, khiến cho những kỹ năng truyền thống mà lao động trung niên sở hữu trở nên lỗi thời[9].
Tiếp theo là do môi trường làm việc thiếu tính bền vững. Hiện nay, xu hướng ngày càng chú trọng đến chất lượng và hướng tới sự cân bằng công việc - cuộc sống, dẫn đến việc nhiều người không còn xem công việc toàn thời gian, lâu dài là ưu tiên hàng đầu, điều này khiến họ sa vào hợp đồng ngắn hạn, việc làm thời vụ hoặc công việc tự do, thậm chí không có sự bảo đảm về an sinh xã hội. Nhóm tác giả nhận thấy, nếu tình trạng môi trường làm việc không lành mạnh, không an toàn, gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe cũng như quyền và lợi ích của NLĐ thì tỷ lệ người không có khả năng lao động bền vững sẽ ngày càng tăng cao do áp lực, căng thẳng hoặc mắc bệnh nghề nghiệp trong môi trường làm việc thiếu tính bền vững.
Cuối cùng là NLĐ thiếu cơ hội đào tạo và phát triển. Nhiều NLĐ không có cơ hội tiếp cận với các chương trình đào tạo hoặc phát triển kỹ năng cần thiết để thích ứng với thị trường lao động thay đổi. Bên cạnh đó, việc thiếu kỹ năng và đào tạo liên tục, do không có cơ hội, hoặc khả năng tiếp cận với các chương trình đào tạo liên tục và cập nhật kém hơn cũng là hạn chế của NLĐ, nhất là NLĐ trong độ tuổi trung niên.
Ngoài ra, việc dạy nghề ở thành thị và nông thôn cũng có sự chênh lệch rõ ràng khiến cho tỷ lệ người không có khả năng lao động bền vững có sự khác biệt rõ rệt. Việc này khiến họ khó cạnh tranh với lao động trẻ hơn trong các ngành nghề đòi hỏi kỹ năng mới. Điều này không chỉ gây bất lợi cho người lao động mà còn gây ra bất lợi cho các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung[10].
Về mặt chủ quan, việc gia tăng người không có khả năng lao động bền vững xuất phát từ áp lực công việc, sức khỏe và tuổi tác.
Công việc ngày càng đòi hỏi cao hơn về hiệu suất và thời gian, dẫn đến tình trạng kiệt sức, căng thẳng tinh thần, và suy giảm sức khỏe tâm lý. Tại Việt Nam, có khoảng 42% người lao động thường xuyên gặp căng thẳng. Riêng công nhân, có 22% người cho biết cuộc sống cá nhân và gia đình là nguyên nhân chính gây căng thẳng tại nơi làm việc[11]. Việc áp lực, căng thẳng kéo dài dẫn đến việc nhiều người phải đối mặt với các vấn đề sức khỏe mạn tính, cả về thể chất lẫn tinh thần, do chế độ ăn uống, sinh hoạt thiếu lành mạnh hoặc hậu quả của việc làm việc quá sức trong thời gian dài. Điều này khiến họ dần dần không thể làm việc một cách bền vững, phải đối mặt với nguy cơ thất nghiệp vì không bảo đảm đủ sức khỏe làm việc.
4.2. Các biện pháp thực hiện pháp luật bảo vệ người không có khả năng lao động bền vững
Thứ nhất, phải có quy định về khái niệm cụ thể đối với đối tượng không có khả năng lao động bền vững. Hiện nay, khái niệm về người không có khả năng lao động bền vững chưa được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật hiện hành. Điều này dẫn đến việc không có chính sách cũng như định hướng cụ thể để bảo vệ những đối tượng này. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị giải pháp này với bước đầu là có quy định cụ thể về khái niệm người không có khả năng lao động bền vững nhằm có phương hướng giải quyết hiệu quả và triệt để hơn, giúp cho những người không có khả năng lao động bền vững sớm ổn định công việc và cuộc sống.
Thứ hai, cần có những chính sách cũng như định hướng cho người không có khả năng lao động bền vững. Sau khi pháp luật đã có định nghĩa cụ thể về người không có khả năng lao động bền vững thì chính sách bảo vệ những người thuộc đối tượng này là việc cần làm tiếp theo. Chúng tôi quan tâm đến chất lượng công việc, đặc biệt là chế độ nghỉ ngơi, chế độ hưởng lương nhằm giúp cho NLĐ có thể được làm việc trong môi trường ổn định. Ngoài ra, mặc dù pháp luật lao động đã có quy định cụ thể đối với trường hợp bóc lột sức lao động (theo Điều 8 BLLĐ 2019) và quy định xử phạt tại khoản 2 Điều 14 Nghị định số12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhưng có thể thấy vấn đề này vẫn hiện hữu trong cuộc sống thường ngày, do đó pháp luật cần nâng cao mức độ xử phạt đối với trường hợp lừa đảo, bóc lột sức lao động của NLĐ.
Thứ ba, cần tăng cường cơ chế, chính sách nhằm phát triển kỹ năng nghề, đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho NLĐ; chính sách khuyến khích sử dụng NLĐ có chứng chỉ, kỹ năng nghề; vai trò, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho NLĐ. Việc hoàn thiện chính sách này sẽ giúp NLĐ sẽ có cơ hội tự tạo, tìm, hoặc duy trì việc làm, chuyển đổi nghề, tăng thu nhập và ổn định sinh kế; giảm rủi ro mất việc làm với NLĐ trong quá trình tự động hóa, công nghệ mới thay thế sức người. Góp phần bảo đảm việc làm, an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững.
Thứ tư, cần nâng cao nhận thức xã hội về NLĐ không bền vững. Cần có hoạt động tuyên truyền và nâng cao nhận thức nhằm thay đổi quan điểm xã hội về những NLĐ không bền vững, giảm thiểu kỳ thị và tạo điều kiện để họ hòa nhập vào cộng đồng và thị trường lao động.
Khuyến khích cộng đồng và các tổ chức phi chính phủ tham gia vào việc hỗ trợ NLĐ yếu thế thông qua các chương trình thiện nguyện, đào tạo kỹ năng, và hỗ trợ việc làm.
5. Một số kiến nghị về bảo vệ người lao động không có khả năng lao động bền vững
Thứ nhất, để bảo đảm quyền lợi của họ thì cần phải đưa ra được quy định cụ thể về các đối tượng lao động không có khả năng lao động, bao gồm NKT, người già yếu, và các nhóm dễ bị tổn thương khác và xây dựng được khung pháp lý rõ ràng quy định về quyền lợi như trợ cấp tài chính, bảo hiểm y tế, và nghĩa vụ của nhà nước và xã hội trong việc hỗ trợ các đối tượng này về chương trình đào tạo nghề, việc làm.
Cần tăng cường thanh tra và giám sát việc thực thi các chính sách bảo vệ lao động yếu thế trong doanh nghiệp, bảo đảm rằng họ không bị đối xử bất công hoặc thiệt thòi trong môi trường làm việc.
Thứ hai, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ phù hợp, trong đó cần có những quy định bắt buộc tổ chức Công đoàn và các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp, cần có sự quan tâm nhiều hơn. Ngoài ra cần phải tạo ra môi trường bình đẳng cho họ giảm bớt sự kỳ thị thiếu tôn trọng đối với những NLĐ yếu thế, khi xã hội có nhận thức cao về việc bảo vệ quyền lợi cho NLĐ không có khả năng lao động bền vững thì sẽ hình thành một ý thức trách nhiệm chung, khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia vào các hoạt động hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi cho họ nhằm hướng đến một xã hội bình đẳng con người giúp đỡ lẫn nhau để phát triển.
Thứ ba, để tránh việc những người có ý đồ xấu lợi dụng NLĐ không có khả năng lao động bền vững để thực hiện mục đích thương mại thì cần đưa ra biện pháp xử lý cần thiết để tránh những trường hợp xấu xảy ra.
Những kiến nghị này nhằm xây dựng một hệ thống hỗ trợ toàn diện, từ chính sách nhà nước, doanh nghiệp đến cộng đồng, giúp bảo vệ và nâng cao chất lượng cuộc sống của NLĐ không có khả năng lao động bền vững.
Kết luận
Trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội hiện nay, việc bảo vệ NLĐ không có khả năng lao động bền vững là một vấn đề cấp thiết. Những vướng mắc trong hệ thống pháp luật hiện tại đã tạo ra nhiều rào cản, khiến quyền lợi của nhóm lao động này chưa được bảo đảm đầy đủ. Để nâng cao hiệu quả bảo vệ, cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, cũng như phát triển các chương trình hỗ trợ phù hợp. Điều này không chỉ giúp NLĐ có hoàn cảnh khó khăn ổn định cuộc sống, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và bền vững hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý 3 và 9 tháng năm 2024 của TCTK, Tạp chí Con Số Sự Kiện, Bức tranh kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm 2024: Những điểm sáng nổi bật, https://consosukien.vn/buc-tranh-kinh-te-xa-hoi-9-thang-dau-nam-2024-nhung-diem-sang-noi-bat.htm.
2. Báo Hưng Yên, Lao động trên 35 tuổi khó tìm việc vì thiếu kỹ năng, không được đào tạo liên tục, https://baohungyen.vn/lao-dong-tren-35-tuoi-kho-tim-viec-vi-thieu-ky-nang-khong-duoc-dao-tao-lien-tuc-3175691.html.
3. Lê Anh, Góc nhìn Đại biểu: Giải quyết vấn đề lạm dụng sức lao động trẻ em cần sự tham gia chủ động, tích cực của toàn xã hội, https://quochoi.vn/pages/tim-kiem.aspx?ItemID=5.
4. Luật Người khuyết tật năm 2010.
5. Nguyệt Hà, Khoảng 31,7% người khuyết tật từ 15 tuổi trở lên có việc làm, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, https://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/khoang-317-nguoi-khuyet-tat-tu-15-tuoi-tro-len-co-viec-lam-95206.html.
6. Nhật Anh, Tạo việc làm cho người cao tuổi trong bối cảnh già hóa dân số, https://nhandan.vn/tao-viec-lam-cho-nguoi-cao-tuoi-trong-boi-canh-gia-hoa-dan-so-post806594.html.
7. Phan Hoạt, “Khát” lao động có tay nghề, https://cand.com.vn/thi-truong/khat-lao-dong-co-tay-nghe-i742356/.
8. Ths. Nguyễn Thị Xuân Mai, Ths. Trần Thiên Trang, Quyền lao động của trẻ em - Một số vướng mắc và giải pháp hoàn thiện, https://danchuphapluat.vn/quyen-lao-dong-cua-tre-em-mot-so-vuong-mac-va-giai-phap-hoan-thien.
9. TS. Trịnh Thái Quang và PGS.TS. Trần Thị Minh Thi, Nhu cầu và thực trạng tham gia lao động của người cao tuổi ở Đà Nẵng, Nxb. Khoa học xã hội, 11/2023.
10. Xuân Mai, 42% người lao động Việt Nam thường xuyên gặp căng thẳng, https://tuoitre.vn/42-nguoi-lao-dong-viet-nam-thuong-xuyen-gap-cang-thang-20231130171011879.htm?gidzl=rqObHV3pwYxHNoH1ykNeADjM94dauhqXmr1s7UIslIIM07j9jE6q8iDRVaYpxk1smrLwIpWHWlzOzFJlA0.
[1] Ths. Nguyễn Thị Xuân Mai, Ths. Trần Thiên Trang, Quyền lao động của trẻ em - Một số vướng mắc và giải pháp hoàn thiện, https://danchuphapluat.vn/quyen-lao-dong-cua-tre-em-mot-so-vuong-mac-va-giai-phap-hoan-thien, truy cập ngày 22/10/2024.
[2] Điều 4 Luật Người khuyết tật năm 2010.
[3] Điều 5Luật Người khuyết tật năm 2010.
[4] Từ Điều 32 đến Điều 35 Luật Người khuyết tật năm 2010.
[5] Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý 3 và 9 tháng năm 2024 của TCTK, Bức tranh kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm 2024: Những điểm sáng nổi bật, Tạp chí con số sự kiện, https://consosukien.vn/buc-tranh-kinh-te-xa-hoi-9-thang-dau-nam-2024-nhung-diem-sang-noi-bat.htm, truy cập ngày 22/10/2024.
[6] Lê Anh, Góc nhìn đại biểu: “Giải quyết vấn đề lạm dụng sức lao động trẻ em cần sự tham gia chủ động, tích cực của toàn xã hội”, https://quochoi.vn/pages/tim-kiem.aspx?ItemID=5, truy cập ngày 22/10/2024.
[7]Nguyệt Hà, Khoảng 31,7% người khuyết tật từ 15 tuổi trở lên có việc làm, https://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/khoang-317-nguoi-khuyet-tat-tu-15-tuoi-tro-len-co-viec-lam-95206.html, truy cập ngày 22/10/2024.
[8] TS. Trịnh Thái Quang và PGS.TS. Trần Thị Minh Thi, Nhu cầu và thực trạng tham gia lao động của người cao tuổi ở Đà Nẵng, Nxb. Khoa học xã hội, 11/2023.
[9] Báo Hưng Yên, Lao động trên 35 tuổi khó tìm việc vì thiếu kỹ năng, không được đào tạo liên tục, https://baohungyen.vn/lao-dong-tren-35-tuoi-kho-tim-viec-vi-thieu-ky-nang-khong-duoc-dao-tao-lien-tuc-3175691.html, truy cập ngày 07/10/2024.
[10] Phan Hoạt, “Khát” lao động có tay nghề, https://cand.com.vn/thi-truong/khat-lao-dong-co-tay-nghe-i742356/, truy cập ngày 09/10/2024.
[11] Xuân Mai, 42% người lao động Việt Nam thường xuyên gặp căng thẳng, https://tuoitre.vn/42-nguoi-lao-dong-viet-nam-thuong-xuyen-gap-cang-thang-20231130171011879.htm?gidzl=rqObHV3pwYxHNoH1ykNeADjM94dauhqXmr1s7UIslIIM07j9jE6q8iDRVaYpxk1smrLwIpWHWlzOzFJlA0, truy cập ngày 07/10/2024.
Hoạt động sản xuất tại Công ty TNHH Thương mại dịch vụ và sản xuất Minh Tâm (Cụm công nghiệp Dương Liễu, huyện Hoài Đức) - Ảnh: VGP.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Điểm mới của Luật Đất đai năm 2024 về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất
-
Hệ thống Tòa án nhân dân “đoàn kết, trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính, đổi mới, vượt khó, hiệu quả”, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2025
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Hội thảo khoa học "200 ngày tập kết ra Bắc tại Cà Mau - tầm nhìn chiến lược và giá trị lịch sử"
-
Khai mạc Festival “Về miền ví, giặm – Kết nối tinh hoa di sản”
Bình luận