Biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi trong giai đoạn chuẩn bị xét xử - Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện

Biện pháp ngăn chặn tạm giam là một công cụ quan trọng trong tố tụng hình sự, nhằm bảo đảm quá trình điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện hiệu quả. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp này với người dưới 18 tuổi - nhóm đối tượng chưa hoàn thiện về nhận thức và phát triển tâm sinh lý - thì pháp luật đặt ra những yêu cầu rất nghiêm ngặt. Đó là, chỉ được áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp thật cần thiết, khi các biện pháp khác như giám sát, bảo lãnh không hiệu quả, và thời hạn tạm giam cũng phải ngắn hơn so với người trưởng thành.

Quy định này thể hiện tinh thần nhân đạo, bảo vệ quyền lợi của người dưới 18 tuổi và hướng đến mục tiêu cải tạo, giáo dục thay vì trừng phạt. Bởi vì, việc tạm giam có thể gây tổn thương nghiêm trọng đến tâm lý và quá trình tái hòa nhập xã hội của người chưa thành niên, do đó chỉ nên là biện pháp cuối cùng khi không còn lựa chọn nào khác. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, việc áp dụng biện pháp này vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc cân bằng giữa bảo vệ các quan hệ xã hội và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Vì vậy, việc nghiên cứu các vướng mắc và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật là cần thiết để bảo đảm tính khả thi và hiệu quả của quy định này.

1. Quy định của pháp luật

Biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi được quy định tại Điều 419 BLTTHS 2015 như sau: “1. Chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết.

Chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả. Thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên quy định tại Bộ luật này. Khi không còn căn cứ để tạm giữ, tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.

…”

Có thể thấy, BLTTHS quy định rất chặt chẽ biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi, trong đó phải bảo đảm 04 nguyên tắc chủ yếu sau:

- Thứ nhất, “chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết”.

Đây là nguyên tắc nền tảng trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi. Việc sử dụng biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam hoặc áp giải chỉ được thực hiện khi thật sự cần thiết, nhằm hạn chế tối đa sự tác động tiêu cực đến người dưới 18 tuổi. Điều này nhấn mạnh sự cẩn trọng đặc biệt trong tố tụng hình sự đối với nhóm tuổi này, bởi vì người dưới 18 tuổi đang trong quá trình phát triển về tâm sinh lý, dễ bị tổn thương bởi các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc như tạm giam.

- Thứ hai, chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả.

Việc tạm giữ, tạm giam chỉ là biện pháp sau cùng khi các biện pháp ngăn chặn nhẹ hơn, như giám sát, bảo lãnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, không đáp ứng được yêu cầu. Điều này thể hiện quan điểm nhân đạo của pháp luật đối với người dưới 18 tuổi, bảo vệ họ tránh khỏi những ảnh  hưởng tiêu cực của tạm giam, một biện pháp hạn chế tự do nghiêm trọng. Cơ quan có thẩm quyền phải chứng minh rằng các biện pháp thay thế đã được áp dụng nhưng không hiệu quả trước khi quyết định tạm giam.

- Thứ ba, thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên quy định tại Bộ luật này.

Quy định này xác định thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phải ngắn hơn, chỉ bằng hai phần ba thời hạn tạm giam áp dụng đối với người trưởng thành. Mục tiêu là hạn chế tối đa sự xâm phạm tự do đối với người chưa thành niên và tránh việc họ phải chịu ảnh hưởng tiêu cực lâu dài từ việc tạm giam kéo dài. Điều này phản ánh sự bảo vệ đặc biệt mà pháp luật dành cho trẻ em và thanh thiếu niên, theo các nguyên tắc về quyền trẻ em và tái hòa nhập xã hội.

- Thứ tư, khi không còn căn cứ để tạm giữ, tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.

Đây là quy định bắt buộc yêu cầu cơ quan tố tụng phải kịp thời hủy bỏ biện pháp tạm giam ngay khi không còn căn cứ pháp lý để tiếp tục giam giữ. Khi đó, cơ quan có thẩm quyền phải chuyển sang áp dụng các biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn. Quy định này nhằm bảo đảm quyền lợi của người bị tạm giam, đặc biệt là người dưới 18 tuổi, không bị xâm phạm, và bị kéo dài thời hạn phải tạm giam. Việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng các biện pháp ngăn chặn khác là cách để bảo đảm tính công bằng và nhân đạo trong quá trình tố tụng.

Như vậy, Điều 419 BLTTHS 2015 quy định rõ ràng và chặt chẽ về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi. Những nguyên tắc này đặt ra ranh giới pháp lý nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi và sự phát triển người dưới 18 tuổi, tránh lạm dụng tạm giam - một biện pháp có thể gây ra tác động tâm lý tiêu cực lâu dài đối với những đối tượng này. Việc áp dụng biện pháp tạm giam cần được xem xét kỹ lưỡng, hạn chế tối đa, và phải có cơ chế thay thế ngay khi không còn cần thiết, phản ánh quan điểm nhân đạo và cải cách trong hệ thống tư pháp Việt Nam.

2. Một số vướng mắc trong thực tiễn khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi

Mặc dù BLTTHS quy định chặt chẽ về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi, tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng vẫn còn nảy sinh một số khó khăn do còn có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau dẫn đến việc thực hiện biện pháp này vẫn còn chưa có sự thống nhất.

Ví dụ: Khoảng 22 giờ ngày 02/7/2023, Phạm Tuấn K yêu cầu cả nhóm 06 người gồm: Trịnh Ngọc N, Phạm Đăng Ka, Nguyễn Thanh Nh, Nguyễn Quốc Th, Trần Văn N1, Huỳnh Anh Ng (các đối tượng trên đều là người dưới 18 tuổi) đi tìm người đi đường để cướp tài sản. Kiệt lấy 05 con dao tự chế đưa cho những người khác làm hung khí gây án. Nhóm 06 đối tượng sử dụng 03 xe mô tô lưu thông trên đường H theo hướng thành phố L đi thị trấn P để tìm người cướp tài sản. Khoảng 22 giờ 50 phút, khi đến đoạn đường thuộc khóm T4, phường M, thành phố L, tỉnh A, Nh nhìn thấy Trần Chí B và Nguyễn Quang L đang ngồi trên xe mô tô đỗ sát lề đường theo hướng ngược lại. B ngồi phía trước xe đang bấm điện thoại còn L ngồi sau. Nh yêu cầu cả nhóm quay lại, trong lúc quay xe lại thì Ka đổi con dao phát hoang đang cầm lấy con dao cá mập của N. Nh chở Ka áp sát xe của B từ phía sau, Ka cầm dao cá mập bằng hai tay chém theo hướng từ trên xuống dưới, từ sau ra trước vào khoảng ngang vai B và L nhưng không trúng vào người, chỉ trúng vào gương chiếu hậu bên trái của xe. Khi B và L bỏ chạy, nhóm Ka, N, Nh, Th truy đuổi và dùng hung khí chém nhiều cái vào anh Trần Chí B và cướp 01 chiếc điện thoại. Riêng N1 và Ng chỉ đứng bên ngoài quan sát, không tham gia chém B. Sau khi lấy được điện thoại của B, cả nhóm lên xe trở về và đưa điện thoại vừa cướp được cho Phạm Tuấn K.

Hậu quả: Anh Trần Chí B bị tổn thương cơ thể với tổng tỷ lệ thương tật là 37%; các đối tượng đã chiếm đoạt của Trần Chí B 01 điện thoại di động trị giá 1.450.000 đồng.

Qua quá trình điều tra xác định các đối tượng trên còn thực hiện các hành vi vi phạm khác:

Vụ 1: Ngày 25/6/2023, tại phường M, thành phố L, tỉnh A, Phạm Tuấn K, Kiên Huỳnh Thanh Ngh, Trịnh Ngọc N, Phạm Đăng Ka… cướp 675.000 đồng của người dân.

Vụ 2: Sáng ngày 02/7/2023 tại phường M, thành phố L, tỉnh A, Phạm Tuấn K, Kiên Huỳnh Thanh Ngh, Trịnh Ngọc N, Trần Văn N1, Huỳnh Anh Ng,… cướp 01 điện thoại di động của người dân.

Vụ 3: Chiều ngày 03/7/2023, tại phường M, thành phố L, tỉnh A, Phạm Tuấn K, Kiên Huỳnh Thanh Ngh, Phạm Đăng Ka, Trần Văn N1,… cướp 01 điện thoại di động của người dân.

Vụ 4: Ngày 25/6/2023, tại phường M, thành phố L, tỉnh A, Kiên Huỳnh Thanh Ngh, Nguyễn Thanh Nh, Phạm Đăng Ka và nhiều người khác đánh nhau, gây rối trật tự công cộng.

Vụ 5: Sáng ngày 03/7/2023, tại phường M, thành phố L, tỉnh A, Phạm Tuấn K, Phạm Đăng Ka, Huỳnh Anh Ng, Nguyễn Quốc Th1 và nhiều người khác đánh nhau, gây rối trật tự công cộng.

Vụ 6: Ngày 30/6/2023, tại phường M, thành phố L, tỉnh A, Trịnh Ngọc N, Kiên Huỳnh Thanh Ngh, Phạm Đăng Ka và những người khác đánh nhau, gây rối trật tự công cộng.

Các bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 15/7/2023 đến ngày 04/4/2024. Khi hết thời hạn tạm giam, việc có tiếp tục gia hạn tạm giam hay thay đổi biện pháp ngăn chặn khác như thế nào vẫn còn nhiều quan điểm giải quyết khác nhau, đó là:

Quan điểm thứ nhất: Tòa án ra quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang biện pháp ngăn chặn khác vì đã hết thời hạn hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử khi hết thời hạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử.

Quan điểm thứ hai: Tòa án gia hạn biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với các bị cáo là người dưới 18 tuổi vì xét thấy có căn cứ khi áp dụng biện pháp ngăn chặn khác không bảo đảm được việc bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội hoặc bị cáo bỏ trốn.

Quan điểm thứ ba: Khi hết thời hạn tạm giam, Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và xử lý vụ án trên.

Phân tích các trường hợp trên tác giả nhận thấy:

Đối với quan điểm 1 là thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang biện pháp ngăn chặn khác thì tác giả thấy không hợp lý vì theo hồ sơ vụ án, các bị cáo rất manh động phạm tội với tần suất liên tục, chỉ trong vài ngày các bị cáo đã liên tiếp thực hiện nhiều hành vi phạm tội. Nếu thay đổi biện pháp ngăn chặn khác thì sẽ không thể bảo đảm được việc bị cáo có tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn hay không.

Còn với quan điểm 2 thì theo BLTTHS và các văn bản hướng dẫn về vấn đề này thì không có một điều luật nào hay văn bản nào nói cụ thể về vấn đề gia hạn lệnh tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử. Điều 419 BLHS 2015 cũng chỉ nói là thời hạn tạm giam của người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên, khi không còn căn cứ tạm giữ, tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác. Vậy, nếu có căn cứ để tiếp tục tạm giam thì sao. Như vụ án trên là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, xét thấy việc các bị can phạm tội với tần suất liên tục và rất manh động như thế thì việc Tòa án áp dụng biện pháp ngăn chặn khác sẽ không thể bảo đảm việc giải quyết vụ án, nhưng Điều 419 quy định thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên, với quy định bằng hai phần ba như này thì liệu việc gia hạn thêm khi xét thấy có căn cứ là có đúng pháp luật hay không? Đây là những vấn đề mà luật vẫn còn bỏ ngỏ nên gây khó khăn trong quá trình áp dụng.          

Đối với quan điểm 3 là ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì xét thấy đây là trường hợp khả thi nhất vừa không vi phạm tố tụng và bảo đảm quá trình xét xử, nhưng cũng xảy ra một số vướng mắc, nếu như đây là vụ án rất phức tạp, có rất nhiều bị cáo thì việc quyết định đưa vụ án ra xét xử sớm sẽ không bảo đảm được việc nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán một cách kỹ lưỡng sẽ dẫn đến việc có sai sót khó có thể bảo đảm được việc giải quyết vụ án một cách đúng đắn, hoàn chỉnh.

3. Một số kiến nghị, đề xuất

Dựa trên phân tích quy định pháp luật về biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi và những vướng mắc trong thực tiễn tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, cần đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án có người chưa thành niên phạm tội

Đối với những vụ án mà có người dưới 18 tuổi phạm tội thì đề nghị các Thẩm phán giải quyết vụ án phải ưu tiên nghiên cứu và đưa ra xét xử sớm nhất, bảo đảm giải quyết vụ án đúng theo thủ tục tố tụng quy định.

Thứ hai, cần có văn bản hướng dẫn về các căn cứ để không áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác như sau:

- Đối với trường hợp phạm tội có tính chất đặc biệt nghiêm trọng:

Khi người dưới 18 tuổi bị buộc tội trong các vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, như các tội phạm xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, an ninh quốc gia hoặc các tội phạm có mức độ nguy hiểm cao. Những vụ án này thường gây ra hậu quả nghiêm trọng, nên việc áp dụng tạm giam là cần thiết để bảo đảm an toàn xã hội và ngăn ngừa nguy cơ tiếp tục phạm tội.

- Đối với trường hợp phạm tội nhiều lần hoặc có tổ chức:

Nếu người dưới 18 tuổi có hành vi phạm tội liên tục, lặp đi lặp lại hoặc tham gia vào một nhóm tội phạm có tổ chức, đây là tình tiết thể hiện tính chất nguy hiểm của đối tượng. Trong trường hợp này, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác như giám sát, bảo lãnh sẽ không đủ để ngăn chặn hành vi tái phạm, và việc tạm giam trở nên cần thiết.

- Đối với trường hợp có nguy cơ bỏ trốn cao:

Khi có căn cứ xác định rằng người bị buộc tội có nguy cơ bỏ trốn, chẳng hạn như việc người này có mối quan hệ xã hội phức tạp, dễ dàng tiếp cận các phương tiện để bỏ trốn hoặc từng có tiền sử bỏ trốn. Trong những trường hợp này, biện pháp tạm giam sẽ được xem là cần thiết để bảo đảm sự có mặt của bị cáo trong suốt quá trình tố tụng.

- Đối với trường hợp có nguy cơ tiếp tục phạm tội:

Nếu có dấu hiệu hoặc căn cứ cho thấy người dưới 18 tuổi có khả năng tiếp tục thực hiện các hành vi phạm tội, đặc biệt trong trường hợp đã có tiền sử vi phạm pháp luật nhiều lần. Tạm giam là biện pháp duy nhất để bảo đảm rằng người này không thể tiếp tục gây nguy hại cho xã hội trong thời gian chờ xét xử.

- Đối với trường hợp có nguy cơ cản trở hoạt động điều tra, xét xử:

Khi có căn cứ xác đáng rằng bị cáo dưới 18 tuổi có thể gây cản trở quá trình điều tra hoặc xét xử, ví dụ như xóa dấu vết, tác động đến nhân chứng, gây rối loạn chứng cứ. Trong trường hợp này, biện pháp tạm giam là cần thiết để bảo đảm tính khách quan và hiệu quả của quá trình tố tụng.

- Đối với trường hợp không có đủ điều kiện áp dụng các biện pháp giám sát khác:

Trong nhiều trường hợp, biện pháp giám sát hoặc bảo lãnh có thể không khả thi, ví dụ như khi gia đình không đủ điều kiện hoặc không sẵn lòng chịu trách nhiệm giám sát người phạm tội, hoặc môi trường sống của người dưới 18 tuổi không an toàn và không có khả năng quản lý. Khi đó, biện pháp tạm giam có thể là lựa chọn duy nhất để bảo đảm an toàn.

Thứ ba, bổ sung quy định về việc gia hạn tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

Đối với người dưới 18 tuổi, đặc biệt trong các vụ án nghiêm trọng, khi các biện pháp ngăn chặn khác không bảo đảm yêu cầu tố tụng và an toàn xã hội. Quy định này cần đi kèm với hướng dẫn cụ thể về tiêu chí gia hạn, bao gồm mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và nguy cơ tái phạm hoặc bỏ trốn.

Từ những kiến nghị trên, tác giả đề xuất sửa đổi khoản 1 Điều 419 BLTTHS 2015 như sau:

“1. Chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết.

Chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả. Thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên quy định tại Bộ luật này. Khi không còn căn cứ để tạm giữ, tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác. Trong những trường hợp đặc biệt, có thể quyết định gia hạn tạm giam sau khi hết thời hạn hai phần ba thời hạn tạm giam nhưng không quá thời hạn đưa vụ án ra xét xử, dựa trên căn cứ xác đáng về sự nguy hiểm của bị cáo”.

Những đề xuất này không chỉ giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng đối với người dưới 18 tuổi mà còn bảo đảm rằng quyền lợi của tất cả các bên liên quan trong quá trình tố tụng được bảo vệ đúng mức.

ThS. NGUYỄN TIẾN PHÁT (Tòa án quân sự Quân khu 9)

Ảnh minh hoạ - Nguồn: Internet.