Cần hoàn thiện một số hướng dẫn về trường hợp “phạm tội lần đầu” trong thực hiện chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện

Thực hiện chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện trong thời gian qua, bên cạnh thuận lợi lớn vẫn còn có một số tồn tại do hướng dẫn chưa đầy đủ, có một số hướng dẫn chưa cụ thể và có mâu thuẫn đã phần nào gây ra sự lúng túng trong vận dụng, áp dụng pháp luật vào thực tiễn.

Khái niệm “phạm tội lần đầu” được sử dụng trong chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện. Được áp dụng với người chấp hành án (phạm nhân). Đây là chế định định hoàn toàn mới thể hiện chính sách nhân đạo sâu sắc của pháp luật hình sự Việt Nam. Chế định này được quy định tại Điều 368 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 và tại Điều 66 và Điều 106 của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015. Theo đó, bản chất là khi người bị kết án (phạm nhân) chấp hành đủ một thời gian theo quy định, nếu thỏa mãn các điều kiện cần và đủ theo quy định và không thuộc các trường hợp cấm thì được xem xét, quyết định bởi Tòa án có thẩm quyền tha tù trước thời hạn, người bị kết án (phạm nhân) được tái hòa nhập cộng đồng và chịu dưới sự giám sát, giáo dục của địa phương hoặc đơn vị Quân đội cấp Trung đoàn trở lên nơi công tác giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Và, cụ thể điều kiện bên cạnh các điều kiện như đã được giảm thơi gian án phạt tù, đã chấp hành ½ mức án phạt, đã thực hiện xong nghĩa vụ dân sự…thì vấn đề quan trọng là phạm nhân phải thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu”. Đây là, điều kiện bắt buộc để được xem xét tha tù trước thời hạn có điều kiện.

Mặc dù, pháp luật đã quy định và hướng dẫn tương đối đầy đủ về khái niệm “phạm tội lần đầu” cũng như phân định các điều kiện cần và đủ để áp dụng, tuy nhiên, qua thực tiễn công tác xét tha tù trước thời hạn trong thời gian qua bên cạnh sự thống nhất cao về nhận thức và áp dụng pháp luật về các điều kiện để được xét tha tù trước thời hạn thì một trong những điều kiện để được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện còn có sự nhận thức khác nhau, đó là vấn đề hiểu thế nào là “phạm tội lần đầu?” còn chưa có sự thống nhất, ít nhiều gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.

Cách hiểu khác nhau

Sau đây, tôi xin đưa ra các ví dụ cụ thể để minh chứng cho còn có cách hiểu khác nhau.

Một là, phạm nhân Nguyễn Quang H hiện đang chấp hành án 7 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (tính từ ngày tạm giam ngày 13/5/2016). Tại bản án HSST số 101/2016/HSST ngày 30/9/2016 của TAND huyện A, tỉnh B, phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, đã chấp hành thực tế được trên ½ mức án phạt; đã thực hiện nghĩa vụ dân sự xong và các điều kiện khác thỏa mãn điều kiện để được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện theo quy định của pháp luât. Tuy nhiên, một vấn đề phát sinh là trước khi bị kết án bởi bản án ngày 30/9/2016 của TAND huyện A, tỉnh B thì Nguyễn Quang H đã bị kết 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” do TAND huyện B xét xử và đối với bản án này phạm nhân Nguyễn Quang H đã chấp hành xong và đã được đương nhiên xóa án tích theo quy định của pháp luật. Vậy, trường hợp của Nguyễn Quang H có thuộc trường hợp được xác định “phạm tội lần đầu” để được xem xét tha tù trước thời hạn có điều kiện không?

Hai là, đối phạm nhân Phạm Đức B đang chấp hành án 8 năm tù về tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc” tại bản án HSST số 120/2016/HSST ngày 20/4/2106 của TAND huyện C, tỉnh A. Quá trình chấp hành án tính đến nay Phạm Đức B đủ về thời gian và các điều kiện khác như đã thực hiện xong nghĩa vụ dân sự, có nơi cư trú rõ ràng… thì trường hợp của Phạm Đức B có thuộc trường hợp được xác định “phạm tội lần đầu” để được xem xét tha tù trước thời hạn có điều kiện không?

Qua hai trường hợp này, hiện có các quan điểm khác nhau, đó là:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Cả hai trường hợp phạm nhân Nguyễn Quang H và phạm nhân Phạm Đức B nếu các phạm nhân có đủ các điều kiện theo quy định thì cũng được xác định thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu” để được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện. Bởi vì:

Nguyễn Quang H được xác định là trường hợp “phạm tội lần đầu” vì thực tế hiện tại Nguyễn Quang H chỉ bị kết án về một tội trong một bản án đang có hiệu lực pháp luật. Do trước đó phạm nhân đã chấp hành xong bản án và đã được đương nhiên xóa án tích. Mà đã được đương nhiên xóa án tích thì coi như chưa bị kết án.

Đối với trường hợp Phạm Đức B cũng vậy, mặc dù phạm nhân B bị xét xử và tuyên phạt phạt bởi 2 tội là “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc” nhưng vấn đề mấu chốt ở đây là các hành vi đó có cùng thời điểm với nhau và phạm nhân bị xét xử và tuyên phạt trong cùng một bản án đang có hiệu lực pháp luật. Do vậy, căn cứ theo quy định tại điểm khoản 1 Điều 66 BLHS thì phạm nhân Phạm Đức B có đủ điều kiện để được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện.

Quan điểm thứ hai cho rằng: phạm nhân Nguyễn Quang H và Phạm Đức B không được xác định thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu” để được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện. Vì  đối với Nguyễn Quang H không đủ điều kiện để được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện. Bởi mặc dù phạm nhân Nguyễn Quang H chỉ bị xét xử về một tội, bị kết án bởi 1 bản án đang có hiệu lực pháp luật nhưng phạm nhân được xác định là “đã từng bị kết án” nên căn cứ theo khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số: 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì Nguyễn Quang H không thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu” nên không được xem xét tha tù trước thời hạn có điều kiện.

Đối với Phạm Văn B cũng không thể xem xét tha tù trước thời hạn cho phạm nhân được. Vì mặc dù Phạm Văn B bị kết án trong cùng một bản án nhưng bản án đó là bản án mà phạm nhân bị xét xử bởi 2 tội khác nhau do người bị kết án đã thực hiện các hành vi phạm tội khác nhau. Tức là, ngoài hành vi đánh bạc, phạm nhân còn đã thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc. Do vậy, trường hợp của phạm nhân không thể được coi là “phạm tội lần đầu” để được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện.

Từ các quan điểm trên, tôi cho rằng để xác định Nguyễn Quang H và Phạm Văn B có thuộc trường hợp được xem xét tha tù trước thời hạn có điều kiện theo các quy định tại Điều 66 và Điều 106 của BLHS năm 2015 không?

 “Phạm tội lần đầu” được hiểu theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số: 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn: “Phạm tội lần đầu”, cụ thể: Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: “a) Trước đó chưa phạm tội lần nào; b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự;c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích[1].”.

Qua hướng dẫn trên cho thấy có điểm không thống nhất và có điểm chưa rõ, gây khó khăn cho việc vận dụng áp dụng. Cụ thể như đối với trường hợp phạm nhân Nguyễn Quang H đang chấp hành một bản án nhưng trước đó đã bị kết án và đã được xóa án tích thì thế nào? Đối với trường hợp này mặc dù Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 không có hướng dẫn ngoài các hướng dẫn tại các điểm b, c, d khoản 2 Điều 2 như đã phân tích. Chính vì vậy, thực tế chúng ta phải vận dụng tinh thần hướng dẫn của Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ.

Tuy nhiên, đối với hướng dẫn về “Phạm tội lần đầu”, đây không phải hướng dẫn riêng cho thực hiện chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện mà là hướng dẫn về trường hợp áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” theo điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) nay là điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 nhưng thực tế trong thời gian qua việc vận dụng hiểu thế nào là “phạm tội lần đầu” để áp dụng pháp luật trong tha tù trước thời hạn có điều kiện vẫn phải vận dụng, cụ thể theo tinh thần của Công văn trên thì: “Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu..

Như vậy, theo hướng dẫn của Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC sẽ có các trường hợp sau: (1) đối với trường hợp bị cáo đã phạm tội trước đó và bị kết án nhưng đã được xóa án tích; (2) trước đó đã phạm tội chưa bị kết án nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; (3) trước đó đã phạm tội chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau thì tất cả các trường hợp trên không được coi là “phạm tội lần đầu”.

Trong khi đó, theo hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của BLHS về tha tù trước thời hạn có điều kiện thì tại khoản 2 Điều 2 hướng dẫn Phạm tội lần đầu “Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: “a) Trước đó chưa phạm tội lần nào; b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự;c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích”.

Ở đây, nếu so với hướng dẫn của Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ thì cả 3 trường trên đã phân tích đã không được được quy định trong Nghị quyết số 01/2018 NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, cụ thể: (1) đối với trường hợp bị cáo đã phạm tội trước đó và bị kết án nhưng đã được xóa án tích; (2) trước đó đã phạm tội  chưa bị kết án nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; (3) trước đó đã phạm tội chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau thì có được coi là “phạm tội lần đầu” không?

Về vấn đề này theo như quy định của Nghị quyết trên theo tôi là chưa rõ và có  sự mâu thuẫn. Vì, tại các điểm b, c, d ở khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết cũng đều đã liệt kê các trường hợp tương tự như Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC tức là các trường hợp phạm nhân trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội chỉ khác là ở Nghị quyết liệt kê các trường hợp (1), được miễn trách trách nhiệm hình sự; (2), được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và (3) thuộc trường hợp được coi không có án tích.

Tuy nhiên, qua thực tiễn và qua nghiên cứu các quy định của pháp luật tôi thấy theo quy định tại Điều 69 BLHS quy định: Xóa án tích1. Người bị kết án được xóa án tích theo quy định tại các điều từ Điều 70 đến Điều 73 của Bộ luật này. Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án. 2. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.”. Ở quy định này, ta thấy về nguyên tắc thì: (1) người được xóa án tích coi như chưa bị kết án; (2) Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.

Trở lại 2 ví dụ trên, tôi đồng ý với quan điểm 1 tức là: Cả hai trường hợp Nguyễn Quang H và Phạm Đức B quá trình chấp hành án nếu các phạm nhân đủ các điều kiện thì cũng được xác định thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu” để được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện. Bởi các lý do như tôi đã đề cập ở quan điểm thứ nhất. Đặc biệt, tôi nhấn mạnh và cho rằng: Nếu, vận dụng và áp dụng theo tinh thần của Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ thì đối với cả 02 trường hợp Nguyễn Quang H và Phạm Đức B không được xác định thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu”. Vì, đối với Nguyễn Quang H trước đó đã từng bị kết án; còn, Phạm Đức B bị xét xử bởi nhiều tội khác nhau do có các hành vi khác nhau có cấu thành ở các tội khác nhau hoặc kể cả trường hợp thực hiện nhiều hành vi phạm tội cùng một tội danh nhưng được xét xử, kết án cùng một bản án thì cũng không được coi là “phạm tội lần đầu”.

Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt xác định Nguyễn Quang H và Phạm Đức B có thuộc trường hợp phạm tội lần đầu không, theo quan điểm của tôi thực hiện nguyên tắc có lợi cho phạm nhân đồng thời thể hiện nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự và dẫn chiếu theo quy định tại Điều 69 BLHS thì đối với người đã bị kết án nhưng đã được xóa án tích thì coi như “chưa bị kết án”. Chính vì vậy, nếu phạm nhân thỏa mãn các điều kiện khác theo quy định của pháp luật thì phạm nhân Nguyễn Quang H cũng được xác định là “phạm tội lần đầu” để được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện. Đối với phạm nhân Phạm Đức B cũng vậy, mặc dù phạm nhân đã từng bị xét xử về các tội khác nhau nhưng xác định có tội và được tuyên án cùng một bản án và Bản án này là bản án duy nhất ngoài bản án này phạm nhân không đang chấp hành một bản án khác xác định là có tội thì khi phạm nhân thỏa mãn các điều kiện khác theo quy định của pháp luật thì đối cũng được xác định là “phạm tội lần đầu” để được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện.

Kiến nghị hoàn thiện

Qua các ví dụ thực tiễn trên và qua nghiên cứu các quy định của pháp luật, tôi xin kiến nghị hoàn thiện đối với hướng dẫn“phạm tội lần đầu” trong thực hiện chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện; cụ thể như sau: Cần thiết phải bổ sung vào khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số: 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của BLHS về tha tù trước thời hạn có điều kiện, theo hướng (giữ nguyên quy định) “Phạm tội lần đầu”.  Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: “a) Trước đó chưa phạm tội lần nào;  b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích.

Và, bổ sung các trường hợp, đó là: “Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì được coi là phạm tội lần đầu.”. Cụ thể, quy định, hướng dẫn sau khi đã được sửa đổi, bổ sung sẽ là: Phạm tội lần đầu”. Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: “a) Trước đó chưa phạm tội lần nào;  b) Trước đó đã phạm tội đã bị kết án nhưng đã được xóa án tích; c) Trước đó đã phạm tội chưa bị kết án nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; d) Trước đó đã phạm tội chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau; đ) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; e) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; g) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích.

Tóm lại: Qua nghiên cứu và qua thực tiễn áp dụng pháp luật trong thực hiện chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện trong thời gian qua, tôi thấy bên cạnh thuận lợi lớn đó là hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về hình sự, thi hành án hình sự ngày càng hoàn thiện thì cũng còn đó một số tồn tại từ sự quy định, hướng dẫn của cấp có thẩm quyền mặc dù đã rất kịp thời, tuy nhiên vẫn còn có một số tồn tại do hướng dẫn chưa đầy đủ, có một số hướng dẫn chưa cụ thể và có mâu thuẫn đã phần nào gây ra sự lúng túng trong vận dụng, áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Chính vì vậy, qua bài viết chúng tôi mong tới đây cấp có thẩm quyền xem xét, nghiên cứu và có hướng dẫn, bổ sung kịp thời các vướng mắc góp phần thống nhất nhận thức và áp dụng pháp luật trong thực hiện chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện./.

Ảnh minh họa: Công an Nghệ An

 

[1] K2 Điều 69 BLHS năm 2015 (được SĐ,BS năm 2017): Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.

Ths ĐỖ NGỌC BÌNH (Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội)