Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao về đối tượng khởi kiện vụ án hành chính

(TCTA) - Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao mới ban hành Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định về thẩm quyền của Tòa án tại Điều 30 và Điều 31 của Luật Tố tụng hành chính (TTHC).

Theo quy định trong Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã giải thích rõ quyết định hành chính và hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính; xác định thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 31 Luật Tố tụng hành chính.

Đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính

Quyết định hành chính (QĐHC) thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu TAND khu vực giải quyết vụ án hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành.

Quyết định hành chính này có chứa đựng nội dung của QĐHC được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (trừ những văn bản thông báo của cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết, xử lý vụ việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan tổ chức đó), bao gồm:

Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính;

Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại có nội dung giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ QĐHC được hướng dẫn tại nội dung trên.

Đối tượng khởi kiện là hành vi hành chính

Hành vi hành chính (HVHC) thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị ảnh hưởng.

Việc xác định HVHC khi nào là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, khi nào là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác và khi nào là không thực hiện nhiệm vụ, công vụ phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền, thời hạn thực hiện đối với nhiệm vụ, công vụ đó và phân biệt như sau:

Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng do người trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác đó thực hiện theo sự phân công hoặc uỷ quyền, ủy nhiệm thì hành vi đó là HVHC của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác mà không phải là HVHC của người đã thực hiện HVHC đó;

Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A đã nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại UBND xã X theo đúng quy định điểm b khoản 1 Điều 136 và điểm d khoản 2 Điều 142 Luật Đất đai, điểm h khoản 1 Điều 5 Nghị định 151/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp, phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực đất đai, nhưng bà Trần Thị C là cán bộ nhận hồ sơ của UBND xã X đã trả lại hồ sơ cho ông A và không nêu lý do của việc trả lại hồ sơ đó.

Trường hợp này, việc trả lại hồ sơ cho ông A là HVHC của UBND xã X mà không phải là HVHC của bà Trần Thị C.

Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác thì việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể đó là HVHC của người có thẩm quyền, không phụ thuộc vào việc họ trực tiếp thực hiện hay phân công, uỷ quyền, ủy nhiệm cho người khác thực hiện;

Ví dụ: Chủ tịch UBND xã H là người có thẩm quyền tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đối với ông D theo quy định tại khoản 3 Điều 89 Luật Đất đai năm 2024 và điểm b khoản 1 Điều 51 Nghị định số 151/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 2 cấp, phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực đất đai, nhưng đã ủy nhiệm cho Phó Chủ tịch UBND xã H trực tiếp tổ chức việc cưỡng chế.

Trong trường hợp này, việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đối với ông D là HVHC của Chủ tịch UBND xã H mà không phải là HVHC của Phó Chủ tịch UBND xã H.

Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác không thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó là HVHC của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, không phụ thuộc vào việc nhiệm vụ, công vụ đó được phân công, ủy quyền, uỷ nhiệm cho người cụ thể nào trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác đó thực hiện;

Ví dụ: UBND xã A có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các hộ kinh doanh được thành lập trong địa giới hành chính xã theo quy định tại Điều 33, Điều 35 Nghị định số 125/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 2 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tài chính.

Hộ kinh doanh N đã nộp đầy đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ, nhưng quá thời hạn mà pháp luật quy định, UBND xã A không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho Hộ kinh doanh N. Trường hợp này, việc không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho Hộ kinh doanh N là HVHC của UBND xã A.

Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác không thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó là HVHC của người có thẩm quyền, không phụ thuộc vào việc họ đã phân công, uỷ quyền, ủy nhiệm cho người khác thực hiện.

Ví dụ: Ông A đã nộp đủ hồ sơ đăng ký thường trú tại Công an phường B. Tuy nhiên, sau thời hạn quy định tại khoản 3 Điều 2 của Luật Cư trú 2025, Công an phường B vẫn không cập nhật thông tin thường trú và cũng không thông báo kết quả giải quyết cho ông A.

Trường hợp này, việc không thực hiện đăng ký thường trú đúng thời hạn là HVHC của Trưởng Công an phường B - người có thẩm quyền thực hiện thủ tục hành chính, không phụ thuộc vào việc đã phân công, uỷ quyền cho cán bộ cấp dưới tiếp nhận và xử lý hồ sơ.

Cơ quan nhà nước

Theo Điều 3 Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì cơ quan nhà nước bao gồm:

"Cơ quan nhà nước cấp xã", bao gồm: Cơ quan hành chính nhà nước cấp xã là UBND cấp xã; Các cơ quan, tổ chức theo quy định tại khoản 11 Điều 3 Luật TTHC ở cấp xã được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước.

"Người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước cấp xã", gồm Chủ tịch UBND cấp xã, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức quy định tại nội dung trên.

"Cơ quan nhà nước cấp tỉnh" bao gồm: Cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh là UBND cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh; Các cơ quan, tổ chức theo quy định tại khoản 11 Điều 3 Luật TTHC ở cấp tỉnh được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước.

"Người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước cấp tỉnh" gồm Chủ tịch UBND cấp tỉnh; người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh; người đứng đầu cơ quan, tổ chức quy định tại nội dung trên.

“Người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước cấp tỉnh” gồm Chủ tịch Ủy ban nhân cấp tỉnh; người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; người đứng đầu cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 11 Điều 3 Luật TTHC ở cấp tỉnh được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước.

Xác định thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực

Việc xác định thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 31 Luật Tố tụng hành chính:

“Nơi quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện” là nơi xảy ra hành vi vi phạm hành chính; nơi thực hiện hành vi hành chính hoặc nơi có đối tượng mà quyết định hành chính, hành vi hành chính tác động đến làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.

Ví dụ 1: Chị Nguyễn Hà V (trú tại phường A, thành phố H) bị Công an tỉnh B (có trụ sở tại phường N) xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông tại xã M, tỉnh B. Xã M, tỉnh B thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực 3 - B; phường N, tỉnh B thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực 4 - B. Chị V khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp này, Tòa án nhân dân khu vực 3 - B nơi xảy ra hành vi vi phạm hành chính có thẩm quyền giải quyết.

Ví dụ 2: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường K, thành phố H có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 5 Nghị định 151/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp, phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực đất đai. Ông Lê Văn T (trú tại phường B, tỉnh C) nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân phường K, thành phố H để làm thủ tục xin được đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 33, diện tích 155 m tại phường K, thành phố . Tuy nhiên, đã hơn 12 tháng mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường K, thành phố H chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T. Do đó, ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Phường K, thành phố H thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực 5 – H. Trường hợp này, Tòa án nhân dân khu vực 5 - H nơi Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường K, thành phố H thực hiện hành vi hành chính có thẩm quyền giải quyết.

Ví dụ 3: Ủy ban nhân dân phường X, thành phố H ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 155, phường X, thành phố H của bà Trần Thị A (trú tại phường B, tỉnh C). Phường X, thành phố H thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực 1- H. Bà A khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp này, Tòa án nhân dân khu vực 1- H, nơi có đối tượng mà quyết định hành chính, hành vi hành chính tác động đến (thửa đất số 155) có thẩm quyền giải quyết.

Trường hợp căn cứ theo hướng dẫn trên đây mà không xác định được “nơi quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện” thì xác định theo nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.

QUANG PHÚC

Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Ảnh: Khải Hoàn