Đình chỉ giải quyết vụ án vì người khởi kiện không có quyền khởi kiện

Sau khi nghiên cứu bài viết về “Có đình chỉ giải quyết vụ án dân sự do sự việc đã được giải quyết bằng bản án hành chính đã có hiệu lực không?” của tác giả Vi Nhật Hoàng đăng trên Tạp chí Tòa án điện tử ngày 14/02/2025 và bài viết “Cần thụ lý, giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất” của tác giả Dương Thị Chiến, Vũ Thị Thu Hường đăng trên Tạp chí Tòa án điện tử ngày 18/02/2025, tác giả xin đưa ra một số ý kiến trao đổi.

Nội dung các bài viết đều đề cập đến cùng một vấn đề là có hay không thụ lý, giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp quyền sử dụng đất khi đã có bản án có hiệu lực pháp luật trong vụ án hành chính xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất mà đương sự đang khởi kiện trong vụ án dân sự là đúng pháp luật, về nội dung các bài viết nêu trên, tôi đồng tình với quan điểm của tác giả Vi Nhật Hoàng là cần phải đình chỉ giải quyết vụ án, tuy nhiên, theo tôi, căn cứ để đình chỉ giải quyết vụ án không phải vì sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền…” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217 và điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015, mà phải là “người khởi kiện không có quyền khởi kiện” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015.

Vì sao người khởi kiện không có quyền khởi kiện?

Khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính (TTHC) quy định: Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.

Điều 191 Luật TTHC 2015 quy định Hội đồng xét xử sẽ xem xét và quyết định các vấn đề về tính hợp pháp và có căn cứ về hình thức, nội dung của quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện; Tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính; Mối liên hệ giữa quyết định hành chính, hành vi hành chính với quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và những người có liên quan

Theo quy định đã viện dẫn trên và đối chiếu với tình huống nêu tại bài viết, thì việc chấp nhận hay bác yêu cầu khởi kiện của bà T trong vụ án hành chính phụ thuộc vào ảnh hưởng của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp đến quyền lợi của bà T, nếu việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người khởi kiện thì Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp và ngược lại, không ảnh hưởng đến quyền lợi của bà T thì Tòa án bác yêu cầu khởi kiện.

Để đánh giá được việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có gây ảnh hưởng đến quyền lợi của bà T hay không thì trong vụ án hành chính, Tòa án cần thiết phải làm rõ được các vấn đề sau:

- Nguồn gốc, quá trình hình thành, đăng ký và các căn cứ khác xác lập nên quyền sử dụng đất của đương sự;

- Quá trình quản lý, sử dụng, thực hiện các quy định về quản lý như kê khai, đăng ký, thực hiện các nghĩa vụ của người sử dụng đất;

- Xác định hiện trạng sử dụng đất; ranh, mốc giới thửa đất với các chủ sử dụng đất liền kề thông qua việc xem xét, thẩm định tại chỗ.

- Lồng ghép vị trí, tọa độ của hiện trạng sử dụng đất của các bên đương sự đã được Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ với sơ đồ bản đồ địa chính về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định hiện trạng sử dụng đất có hay không phù hợp với vị trí đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Các vấn đề khác theo quy định tại Điều 99, 100, 101 của Luật Đất đai năm 2013.

Các vấn đề cần làm rõ nêu trên, chính là tính hợp pháp và có căn cứ về nội dung của quyết định hành chính nêu tại Điều 191 Luật TTHC 2015.

Do đó, thông qua việc đánh giá tính hợp pháp và có căn cứ về nội dung của việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trong tình huống, Tòa án đã làm rõ được việc cấp giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân huyện V cho ông Nguyễn B, bà Trần Thị T1 đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ số 36 - Bản đồ địa chính VN-2000 là đúng hay không đúng đối tượng sử dụng đất, đúng hay không đúng vị trí, phù hợp hay không với nguồn gốc đất mà đương sự đã kê khai cũng như quá trình quản lý, sử dụng của người sử dụng đất, đồng thời, thông qua đó xác định việc cấp giấy chứng nhận đối với thửa đất là có hay không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà T.

Ở nội dung tình huống pháp lý trao đổi, chúng ta thấy, bằng việc bác yêu cầu khởi kiện của bà T về hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 479922 cấp ngày 17/5/2018 đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ số 36 - Bản đồ địa chính VN-2000 do Ủy ban nhân dân huyện V cấp cho ông Nguyễn B, bà Trần Thị T1, thì rõ ràng Tòa án đã xác định việc cấp giấy chứng nhận đối với thửa đất cho ông B bà T1, không làm hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của bà T hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của T đối với thửa đất mà ông B bà T1 đã được cấp giấy chứng nhận.

Điều 186 BLTTDS 2015 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.

Theo quy định đã viện dẫn, thì quyền khởi kiện vụ án dân sự của cá nhân, tổ chức chỉ phát sinh khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm và cần được bảo vệ.

Do quyền và lợi ích hợp pháp của bà T không bị xâm phạm bởi việc cấp giấy chứng nhận cho ông B bà T1, nên đối chiếu với quy định tại Điều 186 của Bộ luật tố tụng dân sự đã viện dẫn, thì bà T không có quyền khởi kiện vụ án dân sự để tranh chấp thửa đất đã nêu.

Điểm g khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015 quy định Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này…;

Điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 quy định “Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp nguyên đơn người khởi kiện không có quyền khởi kiện”.

Vì vậy, ở tình huống pháp lý đang trao đổi, Tòa án phải căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 nêu trên để đình chỉ giải quyết vụ án.

Tình huống pháp lý nêu tại bài viết là khác với tình huống pháp lý tại Giải đáp số 02/GĐ-TA ngày 19/9/20181 của Tòa án nhân dân tối cao mà tác giả Dương Thị Chiến, Vũ Thị Thu Hường đã viện dẫn; đây là trường hợp vụ việc khiếu kiện hành chính đã có bản án có hiệu lực pháp luật, còn trường hợp tại Giải đáp số 02/GĐ-TA là đương sự có yêu cầu dân sự về tranh chấp đất đai khi đang trong quá trình giải quyết vụ án hành chính (chưa có bản án có hiệu lực pháp luật), do đó hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao cho tình huống pháp lý tại Giải đáp số 02/GĐ-TA là không thể vận dụng cho tình huống pháp lý trong bài viết.

Các vấn đề cần làm rõ trong vụ án dân sự để nhằm xác định chủ thể nào có quyền đối với quyền sử dụng đất đang tranh chấp mà tác giả Dương Thị Chiến, Vũ Thị Thu Hường đã phân tích với các vấn đề cần làm rõ để xác định tính hợp pháp và có căn cứ về nội dung của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong vụ án hành chính, thực tế là cùng một vấn đề, mặc dù quyết định của Hội đồng xét xử trong từng vụ việc là khác nhau, nhưng khi đã xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho một chủ thể là không làm hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp chủ thể khác để bác yêu cầu khởi kiện trong vụ án hành chính, thì Tòa án cũng đã xác định chủ thể nào có quyền đối với quyền sử dụng đất đang tranh chấp (phải là chủ thể được cấp giấy chứng nhận), bởi vì, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, người có quyền sử dụng đất (khoản 16 Điều 3 của luật đất đai năm 2013), sẽ thật là vô lý đã xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B bà T1 là đúng (đúng người sử dụng đất, đúng vị trí, hình thể, kích thước, ranh mốc giới), nhưng vẫn phải thụ lý vụ án dân sự để xác định và quyết định thửa đất được cấp giấy chứng nhận thuộc quyền sử dụng của ông B bà T1 (người được cấp giấy chứng nhận) hay của bà T (người chưa được cấp giấy chứng nhận và bị bác yêu cầu khiếu kiện hành chính về hủy giấy chứng nhận đã cấp), bởi vì nếu như vậy thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp và được xác định là đúng pháp luật, không ảnh hưởng đến người khác trở nên không còn giá trị nữa, điều này là không phù hợp với hoạt động quản lý đất đai của Nhà nước và không đúng với quy định về quyền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người sử dụng đất (khoản 1 Điều 166 Luật Đất đai năm 2013).

Trên đây là quan điểm của tác giả đối với bài viết, xin trao đổi cùng bạn đọc.

NGUYỄN THÀNH LONG (Thẩm phán TAND huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai)

1 Văn bản số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2018 của TANDTC giái đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính.

TAND huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên tổ chức phiên tòa xét xử vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất - Ảnh: Ánh Việt.