Hoàn thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0

Những quy định về khởi kiện vụ án dân sự hiện hành đã tạo ra khung pháp lý cơ bản cho việc khởi kiện, tuy nhiên, nó vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần được khắc phục để phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn và xu thế phát triển. Do đó, việc tiếp tục rà soát và điều chỉnh các quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự là rất cần thiết.

Đặt vấn đề

Hiện nay, trước yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 19/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII thì việc tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết. Trong đó, khởi kiện vụ án dân sự (VADS) là một trong những vấn đề cốt lõi trong lĩnh vực tố tụng dân sự, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan mà còn phản ánh sự tiến bộ của hệ thống pháp luật. Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015) đã có những quy định cụ thể về thủ tục khởi kiện VADS nhằm bảo đảm cho quá trình tố tụng diễn ra hiệu quả, bảo đảm quyền lợi của các đương sự. Tuy nhiên, trước bối cảnh hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì pháp luật về khởi kiện VADS đã bộc lộ một số bất cập, vướng mắc. Chính vì vậy, bài viết đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này.

1. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về khởi kiện vụ án dân sự

1.1. Quy định về quyền khởi kiện của người khởi kiện

Cá nhân, cơ quan, tổ chức được giả thiết bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp bởi chủ thể khác thì có quyền lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp như hòa giải, thương lượng hoặc khởi kiện tại Tòa án. Do đó, khởi kiện tại Tòa án là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp, yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình và là tiền đề pháp lý quan trọng để cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các giai đoạn tố tụng tiếp theo.

Để thực hiện quyền khởi kiện, BLTTDS năm 2015 quy định:

Điều 189. Hình thức, nội dung đơn khởi kiện

1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện phải làm đơn khởi kiện.

2. Việc làm đơn khởi kiện của cá nhân được thực hiện như sau:

a) Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;

b) Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;

c) Cá nhân thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này là người không biết chữ, người khuyết tật nhìn, người không thể tự mình làm đơn khởi kiện, người không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện và phải có người có đủ năng lực tố tụng dân sự làm chứng. Người làm chứng phải ký xác nhận vào đơn khởi kiện.

…”.

Theo đó, VADS phát sinh chủ yếu là do các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện việc khởi kiện bằng cách gửi đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền. Những chủ thể này muốn khởi kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác theo quy định của pháp luật phải làm đơn khởi kiện. BLTTDS năm 2015 chỉ thừa nhận một hình thức khởi kiện duy nhất là đơn khởi kiện thể hiện bằng chữ viết tiếng Việt, không thừa nhận việc khởi kiện bằng lời nói hoặc hình thức khác không phải là văn bản và thể hiện bằng các ký hiệu ngôn ngữ khác không phải là tiếng Việt. Quy định này chưa bảo đảm tối ưu quyền khởi kiện của đương sự. Bởi lẽ, thực tế vẫn còn nhiều trường hợp những chủ thể yếu thế trong xã hội như người khuyết tật, người không biết chữ gặp khó khăn trong việc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện. Pháp luật tố tụng dân sự của một số quốc gia trên thể giới như Pháp, Hàn Quốc quy định, ngoài việc khởi kiện bằng đơn khởi kiện thì đương sự còn có thể trực tiếp đến Tòa án trình bày yêu cầu khởi kiện[1]. Điều này giúp cho quyền khởi kiện của người khởi kiện được bảo đảm kịp thời trong trường hợp họ không thể tự mình khởi kiện hoặc không có người đại diện để làm đơn khởi kiện.

1.2. Quy định về chủ thể khởi kiện bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước

BLTTDS năm 2015 quy định:

Điều 187. Quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước

1. Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

4. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật”.

BLTTDS năm 2015 kế thừa các quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) ghi nhận quyền khởi kiện của cơ quan tổ chức vì lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước. Theo đó, các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quyền khởi kiện VADS để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, các cơ quan, tổ chức khởi kiện sẽ được xác định là nguyên đơn trong VADS mặc dù không có quyền lợi bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Việc BLTTDS năm 2015 tiếp tục quy định về quyền khởi kiện của các cơ quan, tổ chức nói trên đã khẳng định vai trò và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc bảo vệ các giá trị chung của xã hội, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và Nhà nước pháp quyền vững mạnh.

Tuy nhiên, thực tế, số lượng VADS do các cơ quan, tổ chức này khởi kiện để bảo vệ lợi ích hợp pháp, lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước hầu như rất ít hoặc không có, không bảo đảm yêu cầu thực tiễn, quyền lợi của đối tượng cần được bảo vệ. Theo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, từ ngày 01/01/2005 đến 30/12/2023, số vụ việc mà các cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích công và nhóm dễ bị tổn thương là 86 vụ việc/5.548.748 vụ việc, chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ đạt 0,0016%[2]. Các con số này cho thấy trách nhiệm, vai trò khởi kiện của các cơ quan, tổ chức chưa thực sự hiệu quả.

Kế thừa Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, năm 1981, Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 tiếp tục quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”. Chức năng “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” này được coi là chức năng “kiểm sát chung”, theo đó, trong thời kỳ này, VKSND nước ta cũng có thẩm quyền khởi kiện các VADS để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước. Trong giai đoạn từ năm 1961 đến năm 2004, VKSND các cấp của nước ta đã khởi kiện hàng nghìn vụ án dân sự giúp thu hồi nhiều vật tư, tài sản cho Nhà nước[3]. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND không được duy trì nữa, VKSND chỉ còn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Do đó, VKSND không còn quyền khởi kiện các VADS nói trên, dẫn đến ảnh hưởng đến hiệu quả của công cuộc đấu tranh bảo vệ các lợi ích công cộng, lợi ích hợp pháp của Nhà nước.

Về thẩm quyền khởi kiện VADS theo pháp luật Trung Quốc, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chỉ rõ “nghiên cứu xây dựng chế định Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) khởi kiện tố tụng công ích” là cơ sở chính trị quan trọng, mở đường cho việc luật hoá quy định VKSND khởi kiện vụ án dân sự vì lợi ích công cộng ở quốc gia này[4]. Ngày 02/7/2015, trên cơ sở Quyết định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ủy quyền cho VKSND tối cao tiến hành thí điểm tố tụng vì lợi ích công cộng tại một số địa phương, VKSND tối cao Trung Quốc đã xây dựng Kế hoạch dự án thí điểm cải cách đối với Viện kiểm sát khởi kiện vì lợi ích công cộng. Tháng 01/2016, VKSNDTC ban hành “Các biện pháp thi hành thí điểm quyền khởi kiện vụ án vì lợi ích công cộng của Viện kiểm sát nhân dân”, trong đó, quy định về thủ tục khởi kiện VADS và vụ án hành chính vì lợi ích công cộng của VKSND.

Trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của Trung Quốc, Quốc hội, có quan điểm cho rằng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền phối hợp nghiên cứu, đề xuất bổ sung, khôi phục lại quy định về chế định kiểm sát chung trong tố tụng dân sự trong BLTTDS năm 2015, trong đó, xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của VKSND trong việc thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự vì lợi ích công cộng[5].

1.3. Quy định về hình thức khởi kiện bằng phương thức điện tử

Điều 190 BLTTDS năm 2015 quy định về gửi đơn khởi kiện đến Tòa án như sau:

“1. Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:

a) Nộp trực tiếp tại Tòa án;

b) Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính;

c) Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).

…”.

Quyền khởi kiện VADS là một trong các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến định. Có rất nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện việc chuyển đổi số tại Tòa án và cơ quan Công tố/Viện kiểm sát… để đổi mới các hoạt động như nộp đơn khởi kiện theo phương pháp truyền thống sang hệ thống nộp đơn điện tử, đưa hoạt động của Tòa án đến gần người dân hơn với sự hỗ trợ của công nghệ, có thể kể đến các quốc gia tiên phong trong lĩnh vực này như: Mỹ, Trung Quốc... Thông thường, để thực hiện nộp đơn khởi kiện và các hoạt động tố tụng theo hình thức trực tuyến, các bên đương sự phải đăng ký tài khoản với tên thật trên nền tảng tố tụng trực tuyến do Tòa án có thẩm quyền cung cấp.

Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung cách thức người khởi kiện gửi đơn khởi kiện đến Tòa án bằng hình thức gửi trực tuyến qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Điều 5 Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP ngày 30/12/2016 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Luật Tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử (Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP) quy định về điều kiện thực hiện giao dịch điện tử như sau:

Điều 5. Điều kiện thực hiện giao dịch điện tử

1. Người khởi kiện, người tham gia tố tụng lựa chọn gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử với Tòa án phải có các điều kiện sau:

a) Có địa chỉ thư điện tử để gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử đến và đi từ Cổng thông tin điện tử của Tòa án;

b) Có chữ ký điện tử được chứng thực bằng chứng thư điện tử đang còn hiệu lực do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, công nhận;

c) Đã đăng ký giao dịch thành công theo hướng dẫn tại Điều 12 Nghị quyết này;

d) Đáp ứng các điều kiện khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử và hướng dẫn tại Nghị quyết này.

…”.

Đây là quy định nhằm mở rộng quyền và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khởi kiện tranh chấp dân sự tại Tòa án qua hình thức trực tuyến để bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng và kịp thời. Tuy nhiên, việc áp dụng chữ ký điện tử trên thực tế hiện tại còn nhiều khó khăn và chưa thể áp dụng phổ biến, rộng rãi. Bởi lẽ, tính xác thực của các chữ ký điện tử phải được chứng thực bằng chứng thư điện tử đang còn hiệu lực do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, công nhận theo quy định tại Nghị định số 130/2018/NĐ-CP ngày 27/9/2018 của Chính phủ về quy định chữ ký số và chứng thực chữ ký số. Để đảm bảo điều đó, người tham gia tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng phải bỏ một số tiền không nhỏ để thực hiện việc đăng ký, gia hạn chữ ký điện tử này trong một khoảng thời gian nhất định. Chi phí, thủ tục này vẫn đang là vấn đề nan giải cho phần lớn người dân.

1.4. Quy định gửi tài liệu, chứng cứ bằng phương tiện điện tử

Điều 10 Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP quy định người khởi kiện, người tham gia tố tụng gửi tài liệu, chứng cứ bằng phương tiện điện tử đến Tòa án qua cổng thông tin điện tử của Tòa án, trừ trường hợp chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS 2015. Những tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được theo quy định tại khoản 2 Điều 109 là các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, gia đình theo yêu cầu chính đáng của đương sự.

Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tính nguyên vẹn, khách quan của tài liệu, chứng cứ nên Điều 10 và Điều 19 của Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP nói trên đã đi theo hướng đương sự phải nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ bằng phương tiện điện tử trước và sau đó tiếp tục nộp bản chính hoặc bản sao của các tài liệu, chứng cứ này. Điều này dẫn đến trong mỗi vụ việc, Tòa án có tới 03 bộ dữ liệu về tài liệu, chứng cứ, bao gồm: 01 bộ dữ liệu điện từ, 01 bộ dữ liệu được in ra từ dữ liệu điện tử để lưu hồ sơ và 01 bộ dữ liệu là bản chính hoặc bản sao hợp pháp. Trên thực tế, quy định này nảy sinh bất cập ở chỗ các đương sự sẽ phải có 02 lần nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án (01 lần nộp bản điện tử, 01 lần nộp bản chính hoặc bản sao) và Tòa án sẽ phải lưu giữ tới 02 bộ hồ sơ, tài liệu (01 bộ in ra từ dữ liệu điện tử và 01 bộ là bản chính hoặc bản sao hợp pháp do đương sự nộp). Thực tế này đòi hỏi cần phải nghiên cứu thêm kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia để tìm kiếm giải pháp hợp lý hơn về ứng dụng công nghệ trong lưu trữ hồ sơ, tài liệu.

2. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trước yêu cầu hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0

Thứ nhất, bổ sung quy định về việc người khởi kiện có thể trình bày yêu cầu khởi kiện tại Tòa án. Học hỏi kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia như Hàn Quốc, Pháp, BLTTDS 2015 cần thiết bổ sung thêm quy định cho phép người khởi kiện được trực tiếp đến trụ sở Tòa án trình bày các yêu cầu khởi kiện, yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong trường hợp họ là người khuyết tật, không biết chữ. Cán bộ Tòa án sẽ có trách nhiệm lập biên bản về nội dung khởi kiện mà người dân trình bày, sau đó hướng dẫn họ ký tên hoặc điểm chỉ vào biên bản để đưa vào hồ sơ vụ án. Ngoài ra, cần bổ sung quy định đương sự có quyền yêu cầu các tổ chức trợ giúp pháp lý trợ giúp trong việc làm đơn khởi kiện hoặc các giấy tờ khác liên quan tới việc kiện tụng tại Tòa án và trách nhiệm của các tổ chức này trong việc trợ giúp miễn phí cho đương sự thuộc những trường hợp nói trên và cho những đương sự thuộc diện hộ nghèo, gia đình chính sách.

Thứ hai, quy định lại thẩm quyền khởi kiện VADS cho Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc cũng như kế thừa chức năng, nhiệm vụ của VKSND giai đoạn từ 1960 đến trước năm 2002, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành của nước ta nên mở rộng thẩm quyền khởi kiện VADS của VKSND để bảo vệ lợi ích công cộng. Nếu bổ sung lại quy định về thẩm quyền khởi kiện VADS cho VKSND thì BLTTDS nước ta cần phải có quy định cụ thể, chặt chẽ về trình tự, thủ tục khởi kiện, quyền hạn và nhiệm vụ của VKSND khi khởi kiện VADS vì lợi ích công cộng, đặc biệt quy định về hoạt động điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ của VKSND trong một chế định riêng của BLTTDS. Điều này sẽ khắc phục được hạn chế mà Trung Quốc đang gặp phải là thiếu các quy định pháp lý cho việc thực hiện quyền khởi kiện VADS vì lợi ích công cộng của VKSND và sự lúng túng của các đơn vị VKSND khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Như vậy, cần bổ sung quy định tại Điều 21 BLTTDS 2015 về thẩm quyền khởi kiện VADS vì lợi ích công cộng của VKSND như sau: “Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ nếu phát hiện thấy hành vi xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của công dân mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 187 Bộ luật này khởi kiện thì Viện kiểm sát nhân dân có thể khởi kiện vụ án dân sự ra trước Tòa án nhân dân”.

Khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân nêu trên là phù hợp để giao nhiệm vụ đại diện khởi kiện và tham gia tố tụng trong các VADS bảo vệ lợi ích công cộng tại Việt Nam.

Mặt khác, hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có đề xuất thí điểm Viện kiểm sát nhân dân khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương, lợi ích công với lộ trình 03 năm tại 06 tỉnh thành[6]. Do đó, việc quy định lại thẩm quyền khởi kiện các VADS của VKSND là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại.

Thứ ba, cụ thể hóa quy định về khởi kiện bằng phương thức điện tử. Mặc dù quy định của BLTTDS cho phép mọi loại tranh chấp đều có thể gửi đơn bằng hình thức trực tuyến nhưng để quy định này thật sự đi vào đời sống và mang lại hiệu quả tích cực thì Việt Nam cần có những bước đi thận trọng trong việc triển khai mô hình này. Tham khảo kinh nghiệm của Canada, pháp luật Canada mới chỉ trao thẩm quyền cho CRT (Tòa án giải quyết tranh chấp dân sự) giải quyết 04 loại tranh chấp mang tính đặc thù (tranh chấp đơn giản có giá trị thấp), mức độ phức tạp không cao để từ đó mới xem xét mở rộng mô hình này trong hệ thống Tòa án. Chính vì vậy, trước mắt Việt Nam nên thí điểm cho việc gửi đơn, tài liệu, chứng cứ thông qua hình thức trực tuyến đối với một số loại tranh chấp nhất định. Đó là các tranh chấp đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng như tranh chấp có số lượng đương sự ít, giá trị tranh chấp không lớn, chẳng hạn dưới 100 triệu đồng. Việc thừa nhận một cơ chế mới cần thiết phải đi từng bước, để khắc phục kịp thời những sai sót, tránh chồng chéo, quá tải, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Về điều kiện khởi kiện bằng phương thức điện tử, có cần đòi hỏi phải có chữ ký điện tử mới có thể khởi kiện được hay không trong khi quy định về chữ ký điện tử sẽ gây khó khăn rất lớn cho việc thực hiện khởi kiện bằng phương thức này. Về điều này, có thể học hỏi thủ tục hành chính trên dịch vụ công quốc gia, cho phép người khởi kiện có thể scan đơn khởi kiện có chữ ký tay sang dạng pdf để đính kèm lên hệ thống, vừa đảm bảo đơn khởi kiện có chữ ký của người khởi kiện vừa đảm bảo hiệu quả, không tốn kém chi phí để đăng ký, duy trì chữ ký điện tử và dễ thao tác, đơn giản hóa thủ tục nộp đơn khởi kiện.

Thứ tư, về vấn đề lưu trữ hồ sơ khởi kiện. Học hỏi kinh nghiệm của BLTTDS Đức, pháp luật tố tụng nước ta cần quy định về phương thức lưu trữ đối với hồ sơ khởi kiện được nộp bằng phương tiện điện tử nói riêng và nộp trực tiếp nói chung đều theo hướng lưu trữ dưới dạng tệp điện tử để tiết kiệm không gian lưu trữ và dễ dàng quản lý. Mọi tài liệu và hồ sơ khác được nộp trên giấy phải được chuyển sang định dạng điện tử bằng cách thay thế bản gốc. Nếu các tài liệu và hồ sơ vẫn cần thiết ở dạng giấy, chúng phải được lưu trữ ít nhất cho đến khi quá trình tố tụng đã được kết thúc bằng phán quyết có hiệu lực. Tài liệu điện tử phải bao gồm ghi chú về thời điếm và đối tượng mà tài liệu được thay đối sang định dạng điện tử[7].

 

TRẦN THỊ THU UYÊN (Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam)

Tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

2. Luật Giao dịch điện tử năm 2023.

3. Trần Anh Tuấn, Pháp luật Tố tụng dân sự trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Tạp chí Luật học số 01/2022;

4. Vũ Thị Hải Yến, Bùi Việt Dương, Tìm hiểu chế định kiểm sát tố tụng công ích Trung Quốc, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2021.

5. Nguyễn Huy Tiến, Vai trò của VKSND trong bảo vệ lợi ích công ở Trung Quốc bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc-su-kien/chi-thi-cong-tac-nganh-kiem-sat-nhan-dan-nam-2019/vai-tro-cua-vksnd-trong-bao-ve-loi-ich-cong-o-trun-s23-t10784.html.

6. Nguyễn Thị Hương, Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, 2019.

7. PVH, Vụ việc khởi kiện bảo vệ lợi ích công và nhóm dễ bị tổn thương chỉ đạt 0,0016%, https://baomoi.com/vu-viec-khoi-kien-bao-ve-loi-ich-cong-va-nhom-de-bi-ton-thuong-chi-dat-0-0016-c52274755.epi.

8. Báo điện tử Chính phủ, Đề xuất thí điểm Viện kiểm sát nhân dân khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương, lợi ích công, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/de-xuat-thi-diem-vien-kiem-sat-nhan-dan-khoi-kien-vu-an-dan-su-de-bao-ve-nhom-de-bi-ton-thuong-loi-ich-cong-119250520112609502.htm.


[1] Nguyễn Thị Hương, Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2019, tr.159.

[2] PVH, Vụ việc khởi kiện bảo vệ lợi ích công và nhóm dễ bị tổn thương chỉ đạt 0,0016%, https://baomoi.com/vu-viec-khoi-kien-bao-ve-loi-ich-cong-va-nhom-de-bi-ton-thuong-chi-dat-0-0016-c52274755.epi, truy cập ngày 21/5/2025

[3] Nguyễn Huy Tiến, Vai trò của VKSND trong việc bảo vệ lợi ích công ở Trung Quốc - bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc-su-kien/chi-thi-cong-tac-nganh-kiem-sat-nhan-dan-nam-2019/vai-tro-cua-vksnd-trong-bao-ve-loi-ich-cong-o-trun-s23-t10784.html, truy cập ngày 02/01/2025.

[4] Vũ Thị Hải Yến, Bùi Việt Dương, Tìm hiểu chế định kiểm sát tố tụng công ích Trung Quốc, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2021, tr.58-64.

[5] Nguyễn Huy Tiến, Vai trò của VKSND trong bảo vệ lợi ích công ở Trung Quốc bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc-su-kien/chi-thi-cong-tac-nganh-kiem-sat-nhan-dan-nam-2019/vai-tro-cua-vksnd-trong-bao-ve-loi-ich-cong-o-trun-s23-t10784.html, truy cập ngày 02/01/2025.

[6] Báo điện tử Chính phủ, Đề xuất thí điểm Viện kiểm sát nhân dân khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương, lợi ích công, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/de-xuat-thi-diem-vien-kiem-sat-nhan-dan-khoi-kien-vu-an-dan-su-de-bao-ve-nhom-de-bi-ton-thuong-loi-ich-cong-119250520112609502.htm, truy cập ngày 21/5/2025.

[7] Trần Anh Tuấn, Pháp luật Tố tụng dân sự trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Tạp chí Luật học số 01/2022, tr.31-46.

Ảnh minh hoạ - Nguồn: Internet.