.jpg)
Hủy phán quyết trọng tài không đúng
Bài viết đưa ra một tình huống cụ thể và bình luận chuyên sâu về việc giải quyết tình huống đó; từ đó tác giả đưa ra một số gợ mở trong áp dụng pháp luật vào thực tiễn.
1. Nội dung tình huống
Ngày 14/2/2023, Công ty TH và Công ty AB đã ký Hợp đồng cung cấp hơi số 02/2023/HĐ-ABM-TH (“Hợp đồng”) và Phụ lục số 02 kèm theo về việc cung cấp hơi nước bão hòa cho sản xuất. Trong đó, TH cam kết mua hơi để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh; AB cam kết đầu tư, sản xuất, lắp đặt, vận hành lò hơi để bán hơi cho TH. Địa điểm thực hiện Hợp đồng là tại Nhà máy của TH.
Ngày 22 tháng 7 năm 2023, AB đã hoàn thành việc lắp đặt, sản xuất và chính thức vận hành lò hơi, cung cấp hơi cho hoạt động sản xuất tại Nhà máy của TH.
Ngày 03/02/2024, TH gửi Công văn số 02/2024/TH đề nghị AB hỗ trợ giảm giá và sản lượng trong thời kỳ kinh tế khó khăn. AB đã trả lời bằng Công văn số 03/2024/ABM-TH đồng ý hỗ trợ. Các bên đã ký kết Phụ lục Hợp đồng số 01/2024/PL-ABM-TH ngày 30/01/2024 ("Phụ lục Hợp đồng số 01") về việc điều chỉnh giảm giá bán hơi trong 03 tháng (gồm tháng 02, 03 và 04 năm 2024) và điều chỉnh thời hạn thực hiện Hợp đồng kéo dài thêm 03 tháng kể từ khi bắt đầu bán hơi theo Biên bản xác nhận sản lượng hơi từ các bên. Theo đó, thời hạn thực hiện Hợp đồng được điều chỉnh thành 05 năm 03 tháng (63 tháng) kể từ thời điểm bắt đầu bán hơi được xác định là ngày 15/7/2023.
Sau một thời gian thực hiện hợp đồng, từ tháng 7 năm 2024 đến tháng 8 năm 2024, TH lần lượt gửi các Công văn đề nghị AB giảm giá bán hơi. AB đã lần lượt có các Công văn trả lời đề nghị của TH. Theo nội dung trao đổi, các bên không thỏa thuận được về đơn giá bán hơi. Sau đó, các bên tiếp tục có các cuộc họp trực tiếp trao đổi về đơn giá bán hơi nhưng không đưa ra được phương án thống nhất.
Ngày 29/8/2024 các bên cùng ký Hợp đồng cung cấp dịch vụ thẩm định giá với Vinacontrol để thẩm định giá nhiên liệu. Vinacontrol đã có Báo cáo thẩm định giá (kèm theo Chứng thư thẩm định giá số 133/2024/A0139, ngày 10/10/2024) với đơn giá nguyên liệu đầu vào chưa bao gồm VAT là 812.000đ/tấn. Kết luận thẩm định cho thấy giá chưa tăng đến ngưỡng phải điều chỉnh giá bán hơi theo Hợp đồng, nên AB không đồng ý yêu cầu của TH. Sau đó các bên cũng đã họp trực tiếp để tìm phương án giải quyết, song không đi đến thống nhất được mức giá.
Ngày 18 tháng 11 năm 2024, AB gửi Thư khiếu nại số 01/2024/KN-ABM-TN đề nghị TH thanh toán các khoản tiền chưa thanh toán đủ trong tháng 7, 8, 9 năm 2024 và gia hạn thanh toán chậm nhất là ngày 22/11/2024 nhưng TH không thanh toán và cũng không có văn bản trả lời.
Ngày 28 tháng 11 năm 2024, AB gửi Thư khiếu nại số 02/2024/KN-ABM-TH tiếp tục đề nghị TH thanh toán các khoản tiền chưa thanh toán đủ trong tháng 7, 8, 9 năm 2024 và gia hạn thanh toán chậm nhất là ngày 05/12/2024 nhưng TH vẫn không thanh toán và cũng không có văn bản trả lời.
Ngày 18 tháng 12 năm 2024, AB đã khởi kiện TH ra Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).
Ngày 18/4/2025, Hội đồng Trọng tài ban hành Phán quyết Trọng tài của Vụ Tranh Chấp số 128/24 quyết định: Bị đơn/TH phải thanh toán cho Nguyên đơn/AB các khoản tiền bao gồm: Số tiền thanh toán còn thiếu của tháng 7/2024 là 179.778.045 VNĐ; Số tiền thanh toán còn thiếu của tháng 8/2024 là 324.119.791 VNĐ; Số tiền chưa thanh toán của tháng 9/2024 là 494.000.000 VNĐ; Khoản tiền phạt vi phạm do chậm thanh toán đối với các khoản thanh toán từ tháng 7/2023 đến tháng 9/2024 là 177.438.833 VNĐ; Chi phí thuê luật sư là 108.000.000 VNĐ; Khoản phí Trọng tài là 92.579.665 VNĐ.
* Tại Đơn yêu cầu ngày 18/5/2025 và tại Bản trình bày ý kiến của Công ty TH đề nghị hủy Phán quyết Trọng tài với lý do:
1. Phán quyết Trọng tài Vụ tranh chấp số 128/24 vi phạm về nội dung và hình thức của Phán quyết Trọng tài theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 61 Luật Trọng tài thương mại 2010, do chỉ ghi Tên của các trọng tài mà không có địa chỉ của Trọng tài viên.
- Phán quyết Trọng tài vi phạm điểm đ khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Luật Trọng tài thương mại năm 2010; khoản 1 và điểm b, đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
- Phán quyết Trọng tài vi phạm theo khoản 1 Điều 69. Quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
2. Nội dung Phán quyết Trọng tài Vụ tranh chấp số 128/24 ngày 18/4/2025 của VIAC trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
2.1. Hội đồng Trọng tài không xem xét một cách toàn diện, đầy đủ yêu cầu của Bị đơn, cụ thể: Tại Bản tự bảo vệ, Bị đơn đã đề nghị Hội đồng Trọng tài:
"- Yêu cầu Nguyên đơn điều chỉnh đơn giá mua bán hơi nước trong năm thứ 2 tại Hợp đồng phù hợp với giá thị trường.
- Trong trường hợp Nguyên đơn không điều chỉnh đơn giá mua bán hơi nước phù hợp với giá thị trường, đề nghị Nguyên đơn di dời lò hơi ra khỏi Công ty của Bị đơn".
Yêu cầu này gắn liền với quyền và lợi ích của Bị đơn.
Tại Phần D Phán quyết Trọng tài về các vấn đề pháp lý, Hội đồng Trọng tài chỉ nhận định về việc thực hiện các nghĩa vụ thanh toán và phạt vi phạm do chậm thanh toán mà không xem xét yêu cầu của Bị đơn về việc: "Yêu cầu Nguyên đơn điều chỉnh đơn giá mua bán” mặc dù đây là điều kiện để hai bên tiếp tục thực hiện Hợp đồng. Hội đồng Trọng tài cũng không xem xét về hậu quả pháp lý Hợp đồng, trong trường hợp các bên không thỏa thuận được đơn giá mua bán hơi nước trong năm thứ 2 mặc dù Bị đơn đã có yêu cầu là không đánh giá khách quan, toàn diện tranh chấp, vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự tại khoản 1 Điều 3 BLDS 2015.
2.2. Hội đồng Trọng tài bỏ qua không đánh giá, không xem xét các lập luận của Bị đơn về việc giá mua hơi nước đang cao hơn giá thị trường, đơn giá Vinacontrol xác định chưa sát với giá thị trường.
Hội đồng Trọng tài cũng không thực hiện thủ tục thu thập, xác minh bổ sung chứng cứ và ý kiến của Bị đơn mà mặc định lấy đơn giá do Vinacontrol xác định làm căn cứ giải quyết.
Đây là biểu hiện của việc xét xử thiên lệch, thiếu khách quan, vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trọng tài viên, vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
3. Phán quyết Trọng tài vượt quá phạm vi thỏa thuận trọng tài. Hội đồng Trọng tài xác định giá trị thanh toán của các tháng 7/2024, tháng 8/2024 dựa trên đơn giá ban đầu trong Hợp đồng; phán quyết không xét đến đề xuất giá mới hoặc kết quả thẩm định giá từ bên thứ ba (Vinacontrol) là 812.000đ/tấn.
Đối với tháng 9/2024, mặc dù lúc này lò hơi đã dừng hoạt động, không phát sinh sản lượng hơi trên thực tế, song Hội đồng Trọng tài xác định TH phải có nghĩa vụ thanh toán đơn giá mua hơi của tháng 9/2024.
Căn cứ tại Điều 8.3 Hợp đồng, chế tài phạt vi phạm được áp dụng khi Bên bị vi phạm ra Thông báo yêu cầu phạt vi phạm, bên vi phạm phải thanh toán tiền phạt vi phạm trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận Thông báo. Nhưng Công ty AB không thông báo mà vẫn yêu cầu phạt TH.
Hội đồng Trọng tài chấp nhận yêu cầu của AB đối với việc thanh toán tại tháng 7,8,9/2024 và chấp nhận yêu cầu phạt là vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự 2015 và Điều 11 Luật Thương mại 2005.
4. Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại VIAC, Hội đồng Trọng tài đã ra phán quyết mà không đánh giá đầy đủ các văn bản làm việc, phản đối, đề xuất giá mới và kết quả thẩm định giá; không tổ chức thẩm định tại chỗ, không kiểm tra hiện trạng thực tế lò hơi và lượng nhiên liệu tồn, dù đây là yêu cầu được nêu trong biên bản làm việc và tài liệu phản đối.
5. Nội dung Phán quyết trái đạo đức xã hội và lợi ích công cộng: khi buộc phải thanh toán cả phần dịch vụ không sử dụng trong tháng 9/2024 vượt quá bản chất Hợp đồng. Đề nghị Tòa án xem xét chấp nhận yêu cầu hủy Phán quyết số 128/24 ngày 18/4/2025 giải quyết việc: Tranh chấp Hợp đồng cung cấp hơi nước giữa Công ty TH và Công ty AB của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.
* Bên liên quan do người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Những lý do được nêu trong Đơn yêu cầu huỷ Phán quyếtTrọng tài tập trung vào nội dung vụ tranh chấp, trong khi theo quy định tại khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại Tòa án không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp.
Vì vậy, Công ty AB kính đề nghị Hội đồng xét đơn ra Quyết định không huỷ Phán quyết Trọng tài.
Công ty AB xin được trình bày ý kiến phản bác mà Công ty TH nêu trong đơn yêu cầu huỷ Phán quyết Trọng tài như sau:
- Lý do Phán quyết Trọng tài vi phạm về hình thức và nội dung của phán quyết: Trong vụ tranh chấp này, các bên thỏa thuận chọn hình thức trọng tài quy chế (VIAC) nên không phải ghi địa chỉ Trọng tài viên, do đó Phán quyết trọng tài không vi phạm vấn đề này.
- Lý do Phán quyết vượt quá phạm vi thỏa thuận trọng tài: Công ty AB cho rằng quan điểm Công ty TH là không đúng vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, khi xác định giá trị thanh toán tháng 7/2024, 8/2024, 9/2024, Hội đồng Trọng tài đã nêu rõ quan điểm trong Phán quyết Trọng tài từ Nội dung số 42 (trang 10) đến Nội dung số 53 (trang 15). Trong đó, nội dung có xem xét đến quá trình đàm phán giữa hai bên và đánh giá về kết quả thẩm định giá của bên thứ ba (rõ nhất tại Nội dung số 49).
Thứ hai, Công ty TH đang hiểu sai về điều kiện áp dụng chế tài phạt vi phạm theo Điều 300 và 301 Luật Thương mại 2005. Điều kiện áp dụng chế tài phạt nếu các bên có thoả thuận trong hợp đồng.
Cần phải thấy, Điều 8.3 Hợp đồng quy định phạt vi phạm do chậm thanh toán không nêu thông báo là điều kiện bắt buộc để áp dụng phạt.
- Lý do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng: Phán quyết trọng tài không vi phạm tố tụng, việc Phán quyết buộc Công ty TH thanh toán tháng 9 dựa trên thỏa thuận trong hợp đồng, hơn nữa nội dung này cũng thuộc nội dung tranh chấp mà Tòa án không được xét xử lại. Vụ việc này thì liên quan gì đến đạo đức xã hội và lợi ích công cộng.
Vì vậy, Phán quyết Trọng tài được ban hành hợp pháp, không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
* Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên họp phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Hội đồng xét đơn đã tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng, đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Về đơn yêu cầu huỷ Phán quyết Trọng tài nộp đúng thời gian luật định. Phán quyết Trọng tài đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài của Bên yêu cầu.
Cụ thể yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài vì không có địa chỉ của các Trọng tài viên không phải là một trong những căn cứ để huỷ Phán quyết. Quá trình tố tụng tại trọng tài, Bị đơn cũng không cung cấp tài liệu mới, không khiếu nại về tính hợp pháp của các hợp đồng và tài liệu do Nguyên đơn cung cấp. Do đó, Hội đồng Trọng tài đã căn cứ vào tài liệu của các bên cung cấp để ban hành Phán quyết.
Về việc Bị đơn/bên yêu cầu cho rằng Hội đồng Trọng tài không tổ chức thẩm định tại chỗ. Xét thấy, việc thẩm định tại chỗ do Hội đồng trọng tài tự mình thực hiện hoặc theo yêu cầu của một bên. Phí giám định, định giá do bên yêu cầu tạm ứng hoặc Hội đồng trọng tài phân bổ (điều 46 LTT). Quá trình tố tụng bị đơn không có đơn đề nghị Hội đồng Trọng tài định giá và nộp tạm ứng phí thẩm định; và việc thẩm định không phải yêu cầu bắt buộc đối với Hội đồng Trọng tài và không phải căn cứ để hủy Phán quyết Trọng tài. Nguyên đơn khởi kiện tại Hội đồng Trọng tài là phù hợp với thỏa thuận tại Hợp đồng 02/2023. Phạm vi giải quyết của Hội đồng Trọng tài trong phạm vi của đơn khởi kiện và căn cứ vào Hợp đồng và thỏa thuận của các bên.
Các nội dung khác của yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài cũng đều thuộc nội dung tranh chấp, theo luật quy định cũng không thuộc phạm vi xem xét của Tòa án, do Tòa không có thẩm quyền giải quyết.
Đề nghị Hội đồng xét đơn: Căn cứ Điều 414; Điều 415 BLTTDS; điểm đ khoản 2 Điều 68, khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại năm 2010: Không chấp nhận đơn yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài của Công ty TH.
- Về lệ phí xét đơn: Công ty TH phải chịu lệ phí theo qui định của pháp luật.
2. Bình luận về căn cứ hủy Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp số 128/24 ngày 18/4/2025 mà Hội đồng xét đơn của Tòa án đưa ra
Quyết định số 09/2025 ngày 11/7/2025 của Tòa án nhân dân Thành phố HN đã phạm một số sai lầm nghiêm trọng khi đưa ra căn cứ hủy Phán quyết Trọng tài:
2.1. Lấy tư duy tố tụng dân sự để xem xét Phán quyết Trọng tài có vi phạm hay không.
Quyết định số 09/2025 ngày 11/7/2025 của Tòa án nhân dân Thành phố HN hủy Phán quyết Trọng tài đã phạm sai lầm nghiêm trọng về tố tụng. Cụ thể:
Một là, Hội đồng xét đơn đã nhận định: “Hội đồng Trọng tài… cần phải tiến hành các thủ tục thu thập chứng cứ để xét toàn diện yêu cầu khởi kiện… theo quy định khoản 3 Điều 46 Luật Trọng tài thương mại…” và cho rằng “việc thu thập chứng cứ của Hội đồng Trọng tài chưa đầy đủ, chưa bảo đảm vô tư khách quan, bình đẳng, vi phạm nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài…”. Từ đó Hội đồng xét đơn đã đưa ra nhận định mang tính quy kết rằng Phán quyết Trọng tài vi phạm nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và tiếp tục đưa ra kết luận sai trái là Phán quyết Trọng tài vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Cần phải thống nhất rằng, nếu như Bộ luật Tố tụng dân sự đặt trách nhiệm cho Tòa án trong việc hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ trong suốt quá trình tố tụng, không chỉ khi đương sự có yêu cầu mà cả trong trường hợp khi thấy cần thiết, được thể hiện trong rất nhiều điều luật, xuyên suốt Bộ luật này. Ngược lại, Luật Trọng tài thương mại không đặt ra trách nhiệm ấy với Hội đồng Trọng tài. Luật Trọng tài có trao quyền rất hạn chế tại Điều 45 và Điều 46 cho Hội đồng trọng tài, nhưng không có điều luật nào quy định đó là trách nhiệm của Hội đồng Trọng tài trong việc xác minh (Điều 45) và thu thập chứng cứ (khoản 3 Điều 46). Đó là sự khác biệt căn bản giữa tố tụng dân sự với tố tụng trọng tài.
Theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010, trách nhiệm cung cấp chứng cứ thuộc các bên đương sự, vì thế tất cả tài liệu, chứng cứ mỗi bên cung cấp đều được chuyển đầy đủ cho cho các bên, để nếu không đồng ý thì thu thập tài liệu, chứng cứ phản đối, bác bỏ và gửi cho Hội đồng Trọng tài. Vì trách nhiệm chứng minh là của các bên, nên Hội đồng Trọng tài rất thận trọng và rất hãn hữu chủ động thu thập chứng cứ, nhằm tránh bị nghi ngờ Hội đồng Trọng tài thiên vị, không khách quan và tùy trường hợp phân bổ chi phí thu thập hay buộc một bên chịu. Ngay cả khi Hội đồng Trọng tài chủ động thu thập, mà quá trình thu thập sẽ mất chi phí, Hội đồng yêu cầu các bên nộp chi phí ấy, nếu không bên nào nộp chi phí thì Hội đồng Trọng tài cũng không thu thập, bởi lẽ Trung tâm Trọng tài không ứng chi phí đó cho Hội đồng Trọng tài, như Tòa án ứng trong một số trường hợp.
Ngoài những chi phí mà Bộ luật Tố tụng dân sự đã ghi rõ các bên phải chịu, trong quá trình tố tụng tại Tòa án, có những chi phí Tòa án chủ động ứng trước, ví dụ khi thấy cần giám định (dù không đương sự nào yêu cầu, nhưng thấy cần thiết phải giám định lại, Tòa án có thể chủ động ứng chi phí ấy, sau đó trong bản án mới buộc ai phải chịu). Có những chi phí Tòa án thường xuyên bỏ ra, nhưng không bao giờ buộc các bên đương sự phải chịu do nhà nước “bao cấp”. Ví dụ Thẩm phán đi xác minh, xuống thực địa kiểm tra vv… thì vé tàu xe, vé máy bay, xăng xe (nếu đi bằng phương tiện cơ quan) là những chi phí thực tế nhưng không bao giờ Tòa án buộc các bên ứng ra hoặc khi xét xử Tòa buộc các bên nộp vào ngân sách.
Trọng tài ở Việt Nam hay trên thế giới, mọi chi phí các bên phải ứng ra cho các hoạt động đó.
Trong một số trường hợp, Hội đồng Trọng tài thực hiện việc thu thập khi một hoặc cả hai bên yêu cầu thu thập chứng cứ (nếu yêu cầu đó là có cơ sở và không phải đương nhiên Hội đồng Trọng tài sẽ làm trong mọi trường hợp). Mặt khác, dù có yêu cầu, trong trường hợp Hội đồng Trọng tài thấy không cần phải trực tiếp thu thập sẽ thông báo cho cả hai bên và yêu cầu các bên tự thu thập, cung cấp cho Hội đồng Trọng tài. Trong văn bản này Hội đồng trọng tài chỉ dẫn rõ các yêu cầu cho mỗi bên và thông quaTrung tâmTrọng tài để gửi tới các bên, nhằm giảm chi phí cho các bên.
Hai là, dù xác định các vi phạm thuộc về thu thập chứng cứ (không thu thập), tức là vi phạm tố tụng, nhưng Hội đồng xét đơn không áp dụng căn cứ hủy vì vi phạm tố tụng mà lại quy về “vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, là không chính xác, cụ thể trong Quyết định của Tòa án: “Hội đồng xét đơn xét thấy thủ tục tố tụng của VIAC khi giải quyết Vụ tranh chấp số 128/24 đề ngày 18/04/2025 của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của Luật Trọng tài thương mại 2010… Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010, có cơ sở chấp nhận yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài của TH”.
2.2. Hội đồng xét đơn đã xem xét, đánh giá, xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng Trọng tài đã xét xử
Hội đồng xét đơn của Tòa án nhân dân thành phố HN đã vi phạm khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thể hiện rõ trong đoạn nhận định trong Quyết định số 09/2025: “Ngày 10/7/2024 TH tiếp tục gửi nhiều công văn đề nghị AB giảm giá bán hơi nhưng các bên không thỏa thuận được giá bán hơi, không đưa ra được phương án thống nhất. Ngày 29/8/2024 các bên cùng ký Hợp đồng cung cấp dịch vụ thẩm định giá với Vinacontrol và ngày 10/10/2024 Vinacontrol ban hành chứng thư thẩm định giá số 133/2024/A0139 với đơn giá nguyên liệu đầu vào chưa bao gồm VAT là 812.000đ/tấn. TH không đồng ý với đơn giá của Vinacontrol đưa ra đề xuất mức giá thấp hơn và tiếp tục đề nghị AB giảm giá bán hơi. Sau đó các bên đã họp tìm phương án giải quyết nhưng không đi đến thống nhất. Do các bên không đạt được thỏa thuận về giá, có tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán theo Hợp đồng nên ngày 18/12/2024 AB đã khởi kiện TH tới Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).
Như vậy, trong suốt quá trình tố tụng… các bên đều không thống nhất được giá Vinacontrol thẩm định, cũng không có thỏa thuận cơ quan định giá thứ ba bắt buộc là Vinacontrol. Tuy nhiên, tại mục 49 của Phán quyết Hội đồng Trọng tài cho rằng “... các bên không xuất trình được bất cứ tài liệu chứng cứ nào chứng minh các bên đã có thỏa thuận thống nhất về điều chỉnh đơn giá trên Hợp đồng và cũng không xuất trình được bất cứ tài liệu chứng cứ nào chứng minh giá nhiên liệu trên thị trường tăng hoặc giảm ở tỷ lệ thuộc phạm vi cần điều chỉnh giá mua bán hơi theo quy định tại điều 2 của Hợp đồng....theo đó Hội đồng Trọng tài nhận định rằng cơ sở pháp lý duy nhất để xác định đơn giá mua bán hơi áp dụng đối với kỳ thanh toán tháng 7,8/2024 là đơn giá quy định tại điều 2.1 của Hợp đồng” . Trong khi đơn giá quy định tại Điều 2.1 được các bên thỏa thuận chỉ áp dụng cho 12 tháng đầu tính từ lúc cấp hơi 15/7/2023, các năm tiếp theo giá sẽ được điều chỉnh mỗi năm 01 lần vào đầu năm dựa vào các yếu tố ảnh hưởng tăng hoặc giảm giá nhiên liệu đốt lò, các bên đã ký kết thêm phụ lục hợp đồng. Như vậy, các bên có thỏa thuận về điều chỉnh giá bán hơi trong hợp đồng nhưng hội đồng trọng tài không xem xét thỏa thuận của các bên trong hợp đồng là không tôn trọng thỏa thuận của các bên vi phạm nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại điều 4.1 Luật Trọng tài thương mại”. Nội dung trong Quyết định số 09/2025 được trích dẫn ở trên là thuộc nội dung tranh chấp đã được Hội đồng Trọng tài giải quyết.
Về khoản tiền phạt, Hội đồng xét đơn yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài đưa ra nhận định:
“Ngoài ra nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền phạt được áp dụng khi (tg in nghiêng) bên bị vi phạm ra thông báo yêu cầu phạt (tg) vi phạm, bên vi phạm phải thanh toán tiền phạt vi phạm trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo. Theo điều 8.3 Hợp đồng các bên thỏa thuận....Khi phát sinh các nghĩa vụ phạt theo quy định tại hợp đồng này, các bên có nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền phạt trong thời hạn 10 ngày làm việc, được tính kể từ ngày nhận được thông báo yêu cầu phạt vi phạm từ bên bị vi phạm. Bản thân AB cũng thừa nhận việc thông báo tại Điều 8.3 Hợp đồng để xác định thời hạn thanh toán tiền phạt nhưng AB đã không ra thông báo yêu cầu phạt TH do chậm thanh toán từ tháng 7/2023 đến tháng 6/2024 là chưa ghi nhận sự việc vi phạm mà vẫn yêu cầu phạt vi phạm đối với TH khoảng thời gian này. Hội đồng Trọng tài đã chấp nhận là không thực hiện nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên, nguyên tắc tự do tự nguyện cam kết thỏa thuận khi ban hành Phán quyết Trọng tài, vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự tại khoản 1,2,3 điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010; khoản 2 điều 3 BLDS năm 2015 và điều 11 Luật thương mại năm 2005.”
Nội dung nói trên trong Quyết định hủy Phán quyết Trọng tài của Tòa án nhân dân thành phố HN là chưa chính xác. Hội đồng xét đơn đang xem xét, giải quyết lại, xử lại nội dung vụ tranh chấp, tác giả cho rằng, Hội đồng xét đơn của Tòa án hoàn toàn hiểu sai phạm vi áp dụng nội dung quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
Đặt giả thiết Phán quyết Trọng tài đã có sai lầm nghiêm trọng khi giải quyết nội dung tranh chấp, thì theo quy định tại khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại là: “…Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào các quy định tại Điều 68 của Luật này và các tài liệu kèm theo để xem xét, quyết định; Không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết…”. Như vậy, Luật Trọng tài đã chỉ rõ Tòa án không được xét xử lại nội dung vụ tranh chấp đã được Hội đồng Trọng tài giải quyết.
Trong quá trình giải quyết Hội đồng Trọng tài đã giải quyết đúng theo quy định của pháp luật và thỏa thuận của hai bên trong Hợp đồng, không hề vi phạm tố tụng như phân tích ở mục 1 và cũng không giải quyết sai về yêu cầu của hai bên trong vụ kiện, (mặc dù Hội đồng trọng tài thấy một số quyền, nghĩa vụ của hai có vấn đề, nhưng không bên nào yêu cầu – không khởi kiện hoặc kiện lại nên Hội đồng Trọng tài không đề cập, không giải quyết trong quá trình xét xử, cũng như trong Phán quyết). Hội đồng trọng tài luôn căn cứ trên yêu cầu của hai bên và hợp đồng mà hai bên ký, bảo đảm vô tư, độc lập, khách quan. Phán quyết Trọng tài cũng không vi phạm nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên, nguyên tắc tự do tự nguyện cam kết thỏa thuận khi ban hành Phán quyết. Để chứng minh cho kết luận trên, tác giả sẽ phân tích tại mục 3 dưới đây.
2.3. Sai lầm trong đánh giá tài liệu, chứng cứ vụ tranh chấp
- Về điều chỉnh giá bán hơi: Đúng như Hội đồng xét đơn nhận định tại điểm 2.1 Điều 1 Hợp đồng bán hơi có thỏa thuận: “giá mua hơi sẽ không thay đổi kể từ lúc cấp hơi đến hết 12 tháng, các năm tiết theo giá sẽ được điều chỉnh mỗi năm 1 lần…”, với điều kiện (chứ không phải hết 12 tháng sẽ đương nhiên điều chỉnh giá như Hội đồng xét đơn nhận định):
“+ Nếu giá nguyên liệu trên thị trường tăng hoặc giảm từ 5%-10% thì giá mua bán hơi được giữ nguyên như trên.
+ Nếu giá nhiên liệu trên thị trường tăng hoặc giảm từ 10,01%-20% thì giá bán hơi được điều chỉnh tăng hoặc giảm 10%.
+ Nếu giá nhiên liệu tăng hoặc giảm trên 20,01% thì giá bán hơi điều chỉnh tăng hoặc giảm 15%.”
Hai bên đã phòng ngừa trường hợp không thống nhất được nên thỏa thuận tiếp như sau: “Trong trường hợp các bên không thống nhất, giá nhiên liệu trên thị trường sẽ do một cơ quan định giá thứ 3 xác định, chi phí định giá do hai bên cùng chịu.”
Thỏa thuận nói trên của hai bên trong Hợp đồng là tự nguyện, không trái pháp luật.
Quá trình thực hiện hợp đồng hai bên đã có thỏa thuận điều chỉnh giá trong thời hạn 3 tháng từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2024 theo Phụ lục 01 ngày 30/1/2024. Hết thời hạn này Công ty AB yêu cầu điều chỉnh giá tiếp, nhưng hai bên không thống nhất được. Sau đó, trên cơ sở thỏa thuận tại điểm 2.1 của Hợp đồng là “..không thống nhất, giá…sẽ do một cơ quan định giá thứ 3 xác định…” và hai bên đã thỏa thuận chọn Công ty cổ phần thẩm định giá Vinacontrol thực hiện việc thẩm định giá. Khi có kết quả thẩm định, thấy không có sự chênh lệch giá trên thị trường so với giá thỏa thuận trong Hợp đồng mua bán hơi số 02/2023/HĐ-ABM-TH nên Công ty AB không đồng ý tăng giá. Phía Công ty TH không đồng ý, vẫn yêu cầu giảm giá bán hơi, dù không được Công ty AB chấp nhận nhưng Công ty TH cũng không tự tiến hành trưng cầu thẩm định giá tại một đơn vị khác để cung cấp cho Hội đồng trọng tài nhằm chứng minh thẩm định giá của Vinacontrol là không chính xác, mà tự lấy giá bán hơi ở 2 đơn vị khác (mà theo Công ty AB một số chỉ số cũng khác với Hợp đồng mà hai bên ký) làm cơ sở cho yêu cầu của mình. Khi vụ kiện tới trọng tài, Công ty TH cũng không yêu cầu Hội đồng Trọng tài trưng cầu một đơn vị khác thẩm định giá (giả xử có yêu cầu mà không nộp phí thẩm định thì Hội đồng Trọng tài cũng không trưng cầu thẩm định giá và theo LuậtTrọng tài thương mại năm 2010, Hội đồng Trọng tài cũng không vi phạm tố tụng và không bị coi là không vô tư, cũng không bị coi là vi phạm nguyên tắc giải quyết tại trọng tài). Do đó, Hội đồng trọng tài không tiến hành trưng cầu thẩm định giá, lý do như điểm 1 nói trên đã phân tích.
- Về tranh chấp nghĩa vụ thanh toán theo Hợp đồng:
Khi không có tài liệu, chứng cứ hợp pháp nào để làm căn cứ xác định lại giá bán hơi khác so với giá trong Hợp đồng số 02/2023/HĐ-ABM-TH, thì Hội đồng trọng tài phải căn cứ vào Hợp đồng nói trên để xem xét.
Tháng 7, tháng 8/2024 Công ty AB vẫn cung cấp hơi, nhưng Công ty TH chỉ thanh toán một phần tiền, chứ không thanh toán toàn bộ số hơi đã nhận theo giá trong Hợp đồng (bởi TH đang muốn giảm giá nên không thanh toán đủ theo giá ghi trong Hợp đồng). Công ty AB đã gửi rất nhiều thông báo cho Công ty TH, nhưng Công ty này không thanh toán tiếp với lý do chưa điều chỉnh giá. Đến hạn không thanh toán là vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Khi chưa có căn cứ nào để lấy giá khác thì phải căn cứ giá mà hai bên thỏa thuận trong Hợp đồng để xác định đã thanh toán đủ hay còn thiếu.
Với ý thức thận trọng, tránh sai sót khi xác định số tiền nợ, trong quá trình tố tụng Hội đồng Trọng tài đã gửi văn thư với dụng ý để hai bên, đặc biệt là bị đơn có phản đối gì khác thì cung cấp thêm tài liệu, nhưng Bị đơn không phản đối về số tiền các khoản nợ, mà chỉ đề cập yêu cầu giảm giá mà chưa được AB chấp nhận.
Dù trong Quyết định của Tòa không đề cập về khoản thanh toán giá tháng 9/2024, nhưng tác giả phân tích thêm vấn đề này. Đây là điểm Hội đồng Trọng tài phải tranh luận nhiều nhất, do tháng 9 Công ty AB không cung cấp hơi cho TH. Bình thường, theo lý không cung cấp hơi thì không được đòi tiền, có yêu cầu cũng không được chấp nhận. Tuy nhiên, do điểm 2.1 Điều 2 của Hợp đồng hai bên có thỏa thuận: Công ty TH không sử dụng hơi vẫn phải thanh toán theo thỏa thuận trong hợp đồng. Có lẽ do thiết kế để cung cấp hơi cho TH mang tính đặc thù, không phải dùng cho nơi nào cũng được là lý do có thỏa thuận này chăng? Thỏa thuận này không trái pháp luật, nên dù có chia sẻ với TH, Hội đồng Trọng tài vẫn phải chấp nhận yêu cầu của AB.
- Về thỏa thuận phạt
Hội đồng xét đơn của Tòa án thành phố H cũng không phủ nhận thỏa thuận phạt, bởi lẽ, đã ghi rõ tại Điều 8 Hợp đồng. Tuy nhiên, Hội đồng xét đơn cho rằng: “… AB đã không ra thông báo yêu cầu phạt TH do chậm thanh toán từ tháng 7/2023 đến tháng 6/2024 là chưa ghi nhận sự việc vi phạm mà vẫn yêu cầu phạt vi phạm đối với TH khoảng thời gian này. Hội đồng Trọng tài đã chấp nhận là không thực hiện nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên…”.
Hội đồng xét đơn của Tòa án thành phố H có hai sai lầm trong vấn đề này: Một là, khoản 8.3 Điều 8 Hợp đồng chỉ quy định: “Khi phát sinh nghĩa vụ phạt…bên có nghĩa vụ…thanh toán các khoản tiền phạt trong thời hạn 10 ngày làm việc, được tính kể từ ngày nhận được thông báo…”. Thỏa thuận này có nghĩa là tính từ ngày nhận được thông báo phải thanh toán khoản tiền phạt trong 10 ngày. Ví dụ ngày nhận thông báo là 12 tháng 9 -thứ hai thì ngày 13 tháng 9 đã phải thanh toán tiền phạt và chậm nhất là ngày 22 tháng 9 (vì Hội đồng không hiểu, buộc tác giả phải đưa ra ví dụ, vì biết với nhiều người đây là động tác thừa). Hai là, với thỏa thuận trên việc thông báo không phải là điều kiện để chịu phạt. Do đó, dù không thông báo bên vi phạm vẫn chịu phạt. Tuy nhiên, thực tế không phải AB không thông báo như Hội đồng xét đơn nhận định.
Về việc thông báo Công ty AB đã có văn thư yêu cầu thanh toán số tiền chưa thanh toán và chịu phạt, ví dụ tại văn thư số 01/2024/KN-ABM-TH ngày 18 tháng 11 năm 2024 Công ty AB đã yêu cầu Công ty TH thanh toán số tiền còn thiếu của 03 tháng nói trên. Cũng tại văn thư này Công ty AB đã thông báo “để tránh các khoản phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, đề nghị Công ty TH thanh toán số tiền trên chậm nhất là ngày 22/11/2024. Công ty AB gửi kèm bản tính chi tiết các khoản tiền chưa thanh toán”. Không thấy Công ty TH đáp ứng yêu cầu, ngày 28/11/2024 Công ty AB tiếp tục gửi văn thư số 02/2024/KN-ABM-TH đưa ra thời hạn thanh toán và nếu không được phản hồi sẽ khởi kiện “Lúc đó, ngoài các khoản chưa thanh toán, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, …có thể gánh chịu cả lệ phí trọng tài và các chi phí khởi kiện phát sinh khác”. Tuy nhiên, Công ty TH không đáp ứng yêu cầu nêu ra trong văn thư của Công ty AB.
Ngoài ra, có chi tiết dù không lớn nhưng cũng cần lưu ý khi Hội đồng xét đơn đưa ra nhận định: “Quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét đơn yêu cầu” là không chuẩn xác. Viện kiểm sát là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật, lẽ ra Hội đồng xét đơn phải đưa ra phân tích về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát có đúng pháp luật hay không chứ không phải là có phù hợp hay không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét đơn. Ví dụ: Ý kiến đại diện Viện kiểm sát có nội dung: “Các nội dung khác của yêu cầu hủy phán quyết trọng tài cũng đều thuộc nội dung tranh chấp, theo luật quy định cũng không thuộc phạm vi xem xét của Tòa án, do Tòa không có thẩm quyền giải quyết.” thì Hội đồng xét đơn phải chỉ ra ý kiến này sai ở chỗ nào, ví dụ đó là thuộc tố tụng, không phải nội dung tranh chấp, hoặc cho rằng các điểm đó trong Phán quyết Trọng tài đã vi phạm công lý hiển nhiên nên phải áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại vv…
TAND TP.HCM xét xử vụ tranh chấp hợp đồng hợp tác giữa hai doanh nghiệp - Ảnh: Hoàng Yến.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Cấn Thành Đ, Nguyễn Đức V, Nguyễn Đức A và Nguyễn Gia B có phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 không?
-
Bắt khẩn cấp “ông bầu” Cao Tiến Đoan
-
TAND Khu vực 5 - TP Đà Nẵng: Khẳng định bản lĩnh, vững bước cùng truyền thống 80 năm TAND
-
Trao đổi bài viết “Chiếc ghe máy đánh bắt cá có được xác định là tài sản mà Phạm Hữu V đã trộm cắp của ông Nguyễn Văn C không?”
-
Lời cảm ơn của Ban Tổ chức concert “Việt Nam trong tôi”
Bình luận