.jpg)
Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong tố tụng hành chính ở một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam
Bài viết nêu và phân tích quy định pháp luật tố tụng hành chính của Trung Quốc, Liên bang Nga, Kyrgyzstan về kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong tố tụng hành chính. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị tham khảo cho việc hoàn thiện quy định của Luật Tố tụng hành chính Việt Nam năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2019, năm 2025 về kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Đặt vấn đề
Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong tố tụng hành chính (TTHC) là một trong những thủ tục quan trọng, giúp cho Tòa án cấp trên có thể nhìn nhận, đánh giá lại các sai sót trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới để bảo đảm tính công minh, đúng đắn của pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và bảo đảm các phán quyết xét xử luôn được thấu lý, đạt tình. Tuy vậy, từ khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật, tác giả nhận thấy một vài quy định của Luật TTHC Việt Nam về kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chưa toàn diện, thiếu rõ ràng và chưa đáp ứng được các vấn đề phát sinh trong thực tiễn giải quyết tái thẩm. Do đó, việc tìm hiểu nghiên cứu chuyên sâu những quy định có giá trị trong pháp luật TTHC của một số quốc gia điển hình trên thế giới về kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là thực sự cần thiết, góp phần hoàn thiện Luật TTHC về kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
1. Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong tố tụng hành chính ở một số quốc gia trên thế giới
Theo pháp luật TTHC ở một số quốc gia, kháng nghị theo thủ tục tái thẩm vụ án hành chính (VAHC) sẽ có những điểm tương đồng và khác biệt với Việt Nam. Điều này xuất phát từ nhiều yếu tố tác động khác nhau, song một vài quốc gia dưới đây tác giả chọn lựa nghiên cứu lại có những điểm đặc trưng có giá trị tham khảo cho Việt Nam.
1.1. Trung Quốc
Luật TTHC Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thông qua tại kỳ họp thứ hai Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa VII ngày 04/4/1989, trải qua hai lần sửa đổi vào năm 2014 và năm 2017[1]. Luật này được chia thành 10 chương, trong đó thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được quy định tại Mục 5 của Chương VII. Theo đó, Trung Quốc không có sự phân định giữa giám đốc thẩm và tái thẩm mà họ gọi chung là thủ tục “giám xét lại”, nên khi tác giả phân tích về kháng nghị tái thẩm thì cũng là kháng nghị giám đốc thẩm.
Về đối tượng và căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: Đối tượng kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Căn cứ kháng nghị tái thẩm được quy định tại Điều 91 Luật TTHC Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, việc kháng nghị tái thẩm khi có một trong các căn cứ sau: a) Việc từ chối thụ lý vụ án hoặc bác bỏ vụ kiện là sai; b) Có bằng chứng mới đủ để lật ngược phán quyết hoặc quyết định ban đầu; c) Chứng cứ chính dùng để xác định sự việc trong bản án, quyết định ban đầu là không đủ, chưa được thẩm vấn chéo hoặc bị làm giả; d) Bản án, quyết định ban đầu có sai sót trong việc áp dụng luật, quy định; đ) Vi phạm trình tự tố tụng pháp lý có thể ảnh hưởng đến việc xét xử công bằng; e) Bản án, quyết định ban đầu bỏ yêu cầu khởi kiện; g) Văn bản pháp lý mà bản án, quyết định ban đầu đã được ban hành bị thu hồi hoặc thay đổi; h) Thẩm phán khi giải quyết vụ án có hành vi tham nhũng, hối lộ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, thi hành án sai[2].
Như vậy, các căn cứ kháng nghị tái thẩm theo quy định của pháp luật TTHC Trung Quốc có sự tương đồng với Việt Nam, đều đề cập đến bằng chứng mới làm thay đổi phán quyết của Tòa án hoặc các sai phạm liên quan đến làm giả chứng cứ. Sự tương đồng này cũng hoàn toàn dễ hiểu bởi Trung Quốc và Việt Nam cũng có sự tiếp cận nhất định.
Về chủ thể có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm: Khác với Việt Nam, Luật TTHC của Trung Quốc quy định về chủ thể kháng nghị tái thẩm có sự phân định rạch ròi giữa Tòa án và Viện Kiểm sát. Trong khi Luật TTHC Việt Nam trao quyền kháng nghị tái thẩm cho bốn chủ thể là Chánh án Tòa án tối cao, Chánh án Tòa án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì Luật TTHC của Trung Quốc chỉ giao quyền kháng nghị tái thẩm cho Viện kiểm sát. Cụ thể là, Viện kiểm sát được kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới; trường hợp phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp có căn cứ kháng nghị thì có quyền kiến nghị Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị đối với bản án, quyết định đó[3].
Bên cạnh đó, sự khác biệt đáng kể với Việt Nam, Luật TTHC Trung Quốc còn quy định: Tòa án khi phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới có một trong những tình tiết quy định tại Điều 91 và xét thấy cần thiết thì được quyền xem xét lại hoặc ra lệnh cho Tòa án cấp dưới xét xử lại[4].
Như vậy, Luật TTHC của Trung Quốc quy định về đối tượng kháng nghị tái thẩm tương tự như Việt Nam nhưng về chủ thể có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm lại thể hiện sự khác biệt đáng kể. Nhận thấy, quy định của Trung Quốc chỉ trao cho Viện kiểm sát được quyền kháng nghị tái thẩm VAHC đã thể hiện rõ quyền năng pháp lý rất quan trọng của Viện kiểm sát, nhằm tạo ra một cơ chế kiểm soát xét xử minh bạch, khách quan, loại bỏ tình trạng chồng chéo kháng nghị tái thẩm như ở Việt Nam. Đặc biệt, Luật TTHC của Trung Quốc còn xây dựng mô hình phát sinh tái thẩm không lệ thuộc quá nhiều vào việc kháng nghị tái thẩm mà thủ tục tái thẩm có thể phát sinh khi không có kháng nghị tái thẩm, nó có thể phát sinh khi Tòa án tự mình xét lại khi có căn cứ tái thẩm. Quy định này phần nào làm cho Tòa án có sự chủ động khắc phục các sai lầm, thiếu sót của mình một cách thuận lợi nhất.
Về thời hạn kháng nghị tái thẩm: Luật TTHC của Trung Quốc không quy định trực tiếp về thời hạn kháng nghị tái thẩm VAHC, thay vào đó, theo phương pháp dẫn chiếu, thời hạn kháng nghị tái thẩm VAHC được áp dụng theo thời hạn áp dụng các quy định có liên quan của Luật Tố tụng dân sự của Trung Quốc[5]. Cụ thể, Viện kiểm sát nhân dân được xem xét đơn yêu cầu kháng nghị tái thẩm của đương sự trong thời gian ba tháng để đưa ra quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị tái thẩm[6]. Điều này cho thấy, thời hạn kháng nghị tái thẩm VAHC ở Trung Quốc có sự phụ thuộc vào thời điểm nộp đơn yêu cầu của đương sự. Trong đó, đối với các căn cứ kháng nghị tái thẩm tại các khoản 1, 3, 12, 13 Điều 200 Luật Tố tụng dân sự Trung Quốc thì thời hạn để đương sự nộp đơn yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm là 6 tháng, kể từ ngày đương sự biết hoặc phải biết về các căn cứ đó[7]. Rõ ràng cách tính thời hạn kháng nghị tái thẩm VAHC ở Trung Quốc có sự khác biệt với cách tính thời hạn kháng nghị tái thẩm theo quy định của Luật TTHC Việt Nam. Ở nước ta thời hạn kháng nghị tái thẩm VAHC là 1 năm kể từ ngày chủ thể có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị tái thẩm.
Tóm lại, Luật TTHC của Trung Quốc quy định về kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có những điểm tương đồng và khác biệt với Việt Nam, khác biệt về chủ thể kháng nghị, căn cứ kháng nghị và thời hạn kháng nghị. Điểm đáng chú ý, trong khi Luật TTHC của Việt Nam phân định thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thành hai thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm thì Luật TTHC của Trung Quốc không có sự phân định này và gọi chung là thủ tục “giám xét xử lại”. Bên cạnh đó, chủ thể kháng nghị tái thẩm VAHC của Trung Quốc không thuộc về phía Tòa án mà chỉ trao cho Viện kiểm sát, đặc điểm này đã nhấn mạnh vai trò của Viện kiểm sát, không trao quyền kháng nghị tái thẩm cho phía Tòa án để tăng cường tính khách quan của hoạt động tái thẩm, giám đốc thẩm.
1.2. Liên Bang Nga
Bộ luật Thủ tục hành chính của Liên bang Nga được thông qua bởi Viện Duma Quốc gia Nga (Hạ viện) ngày 20/02/2015 và được sự tán thành của Hội đồng Liên bang (Thượng viện) ngày 25/02/2015, song Bộ luật này được sửa đổi ngày 01/4/2025[8]. Về nội dung, Bộ luật này được chia làm 9 mục, gồm 39 chương, trong đó pháp luật về thủ tục tái thẩm được quy định thành một chương riêng (chương 37). Khi so sánh, đối chiếu quy định này với quy định tương ứng của Luật TTHC Việt Nam, có thể thấy rằng pháp luật về kháng nghị tái thẩm VAHC của hai quốc gia có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chủ thể kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Quy định về chủ thể được quyền kháng nghị tái thẩm trong TTHC rất quan trọng, không chỉ có ý nghĩa bảo đảm tính thống nhất của việc kháng nghị mà còn bảo đảm được trách nhiệm của các chủ thể, tăng cường hiệu quả tái thẩm. Trên tinh thần đó, Bộ luật Thủ tục hành chính của Liên bang Nga quy định về chủ thể có quyền kháng nghị tái thẩm rất rộng, họ cho phép tất cả những người tham gia vụ án và những người không liên quan đến vụ án mà quyền và nghĩa vụ của họ đã được TA quyết định đều được kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bằng hình thức nộp đơn yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật[9]. Đây là điểm khác biệt rất lớn so với Việt Nam. Ở nước ta, chủ thể có quyền kháng nghị tái thẩm hẹp hơn, tập trung vào những chủ thể đứng đầu ngành Tòa án và Viện kiểm sát và theo hướng hạn chế sự tràn lan, lạm quyền kháng nghị tái thẩm, bảo đảm việc kháng nghị tái thẩm có chất lượng cao. Ở Việt Nam tuy chủ thể kháng nghị tái thẩm không nhiều nhưng chủ thể có quyền làm đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm lại rất rộng bao gồm các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Nhận thấy, quy định này của nước ta có phần rõ ràng vừa bảo đảm được lợi ích cho các đương sự, vừa tăng cường sự giám sát của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, bảo đảm pháp chế và tính công bằng, khách quan của pháp luật.
Thứ hai, về căn cứ kháng nghị tái thẩm
Trong kháng nghị tái thẩm VAHC, căn cứ kháng nghị tái thẩm là nội dung vô cùng quan trọng, tạo hành lang pháp lý thống nhất để các chủ thể có thẩm quyền thực hiện kháng nghị tái thẩm, bảo đảm sự chuẩn xác, hiệu quả của công tác này. Nếu không quy định căn cứ kháng nghị thì sẽ tạo ra sự bất nhất và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự, đến hiệu lực của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Ở Liên bang Nga, căn cứ kháng nghị tái thẩm VAHC cũng được đề cập khá rõ ràng. Theo đó, căn cứ để xem xét lại hành vi tư pháp theo tình tiết mới là những tình tiết phát sinh “trước hoặc sau” khi ban hành hành vi tư pháp và có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết đúng đắn VAHC[10]. Cụ thể, căn cứ để xem xét lại hành vi tư pháp theo tình tiết mới được chia làm hai nhóm chính như sau:
Một là, Căn cứ để xem xét lại hành vi tư pháp theo tình tiết mới là những tình tiết sau đây phát sinh sau khi ban hành hành vi tư pháp và có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết đúng đắn VAHC[11].
Hai là, Căn cứ để xem xét lại hành vi tư pháp dựa trên tình tiết mới phát hiện là những tình tiết sau đây đã tồn tại vào ngày thông qua hành vi tư pháp và có ý nghĩa quan trọng đối với VAHC[12].
Theo các quy định trên, căn cứ kháng nghị tái thẩm được xác định là những tình tiết mới, và nhà lập pháp của Nga cũng đã giải thích về tình tiết mới theo hướng là những tình tiết phát sinh sau khi ban hành hành vi tư pháp và có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết đúng đắn VAHC, tình tiết mới là những tình tiết đã tồn tại vào ngày thông qua hành vi tư pháp và quan trọng đối với VAHC. Xét ở Việt Nam, Luật TTHC cũng đề cập đến tính chất của tái thẩm “tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó”, nhưng cách quy định của Việt Nam lại khác với Nga, không đề cập rõ về thời điểm xuất hiện tình tiết mới như của Liên bang Nga.
Thứ ba, về thời hạn kháng nghị tái thẩm
Thời hạn kháng nghị tái thẩm được hiểu là một khoảng thời gian mà pháp luật quy định cho phép chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Ấn định cụ thể về thời hạn kháng nghị nhằm bảo đảm việc kháng nghị tái thẩm được thống nhất, tránh việc quá tải kháng nghị tái thẩm ảnh hưởng đến việc thi hành án hành chính. Liên bang Nga một trong những quốc gia cũng rất quan tâm đến vấn đề tái thẩm, xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Bởi vậy, khoản 1 Điều 346 Luật Thủ tục hành chính Liên bang Nga có quy định: Các chủ thể được quyền kháng nghị tái thẩm phải nộp đơn bằng văn bản trong thời hạn không quá ba tháng, kể từ ngày phát sinh hoặc phát hiện ra các tình tiết làm cơ sở xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật[13]. Trong trường hợp các chủ thể không nộp đơn lên Tòa án đúng thời hạn mà có đơn xin khôi phục thời hạn này thì không phải là căn cứ để từ chối thụ lý đơn hoặc đề nghị xem xét lại quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật[14]. Nhìn chung, cách xác định thời hạn kháng nghị tái thẩm theo quy định của Nga cũng dựa trên thời điểm phát sinh hoặc phát hiện các tình tiết mới, thời hạn kháng nghị tái thẩm ngắn hơn so với thời hạn mà Luật TTHC của Việt Nam quy định.
1.3. Kyrgyzstan
Bộ luật Thủ tục hành chính Cộng hòa Kyrgyzstan có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2017 theo Luật Cộng hòa Kyrgyzstan số 6 ngày 20/01/2017 được sửa đổi, bổ sung mới nhất vào năm 2025[15]. Bộ luật này dành riêng chương 27 để quy định chi tiết về thủ tục tái thẩm. Tuy nhiên, cơ sở để khởi phát thủ tục tái thẩm không giống với pháp luật Việt Nam là dựa trên kháng nghị của cơ quan tiến hành tố tụng mà hình thành bởi đơn đề nghị của người tham gia tố tụng. Mặc dù không có chế định kháng nghị theo thủ tục tái thẩm nhưng Bộ luật này có quy định về các căn cứ để xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, theo đó căn cứ để tái thẩm được chia làm hai trường hợp[16]:
Một là, những tình tiết mới được phát hiện là những tình tiết tồn tại tại thời điểm thông qua bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà đương sự và Tòa án không biết hoặc không thể biết được trước đó. Về cơ bản, những tình tiết này được Bộ luật Thủ tục hành chính Cộng hòa Kyrgyzstan quy định tương đối giống với các căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong TTHC Việt Nam.
Hai là, những tình tiết mới là tình tiết phát sinh sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được thông qua. Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa căn cứ tái thẩm trong TTHC Kyrgyzstan với căn cứ kháng nghị tái thẩm trong TTHC Việt Nam. Bởi lẽ, pháp luật Việt Nam quy định về căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm phải là những sự kiện, tài liệu có khả năng làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định, hoặc nói cách khác, các tình tiết mới này phải là một phần của sự thật khách quan, tồn tại song song với VAHC nên những tình tiết phát sinh sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì không được xem là căn cứ để kháng nghị tái thẩm trong TTHC Việt Nam.
Chính vì pháp luật tố tụng của Kyrgyzstan quy định thủ tục tái thẩm phát sinh dựa trên cơ sở đơn đề nghị của người tham gia tố tụng nên việc hình thành cơ sở để Tòa án trả lại đơn là hoàn toàn cần thiết. Cụ thể, các chủ thể nộp đơn đề nghị nếu có các căn cứ trả lại đơn quy định tại Điều 274 Bộ luật này sẽ bị Tòa án trả lại đơn[17].
Bên cạnh đó, Luật TTHC Cộng hòa Kyrgyzstan còn có sự tường minh khi quy định rõ về những bản án, quyết định có thể trở thành đối tượng để xem xét lại, cụ thể gồm: Phán quyết của Tòa án; Quyết định từ chối thụ lý đơn khởi kiện; Quyết định đình chỉ vụ án; Quyết định trả lại đơn khởi kiện không xem xét; Quyết định khôi phục hoặc từ chối khôi phục thời hiệu khởi kiện[18]. Có thể thấy, không phải bất kỳ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nào cũng có thể trở thành đối tượng để xem xét lại mà phải nằm trong phạm vi giới hạn như trên. Điều này góp phần tạo hành lang pháp lý rõ ràng, công khai, minh bạch để các chủ thể có thẩm quyền có thể thống nhất cách hiểu và áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, nhất quán. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết VAHC, chủ thể tiến hành tố tụng có thể ban hành rất nhiều quyết định đã có hiệu lực pháp luật để giải quyết các vấn đề phát sinh. Do vậy, điểm hạn chế lớn nhất của quy định liệt kê những bản án, quyết định có thể xem xét lại là việc liệt kê có thể bị thiếu, dẫn đến quy định của của pháp luật không được toàn diện.
2. Một số kiến nghị tham khảo từ các quốc gia để hoàn thiện quy định của Luật Tố tụng hành chính Việt Nam về kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Qua nghiên cứu nội dung kháng nghị theo thủ tục tái thẩm của các quốc gia như Trung Quốc, Nga, Kyrgyzstan nêu trên, nhóm tác giả nhận thấy, tất cả các quốc gia đều quy định về căn cứ, chủ thể và thời hạn kháng nghị tái thẩm. Dẫu rằng các tên gọi có sự khác nhau nhưng bản chất đều là thủ tục xét lại các phán quyết của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Sự khác biệt và tương đồng đó là điểm đặc thù mang tính hội nhập pháp luật quốc gia với quốc tế. Qua việc nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia về kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong TTHC, tác giả nhận thấy có các vấn đề sau đây mà Luật TTHC của Việt Nam có thể tham khảo.
Thứ nhất, về chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Hiện nay, theo Điều 283 Luật TTHC, thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thuộc về một số chủ thể sau:
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Nhận thấy, Việt Nam quy định chủ thể có quyền kháng nghị tái thẩm không quá nhiều, nhằm hạn chế sự kháng nghị tràn lan, tăng cường và tập trung trách nhiệm cho một vài chủ thể có vị trí cao trong hệ thống Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, xét ở góc độ khác, khi tham chiếu pháp luật của Trung Quốc, quốc gia này không trao quyền kháng nghị tái thẩm cho các chủ thể thuộc về Tòa án như Chánh án Tòa án mà thay vào đó, chỉ trao quyền cho các chủ thể thuộc Viện kiểm sát nhân dân. Đây là quy định thể hiện sự tăng cường vai trò giám sát tư pháp của Viện Kiểm sát, bảo đảm tính khách quan, minh bạch về tái thẩm. Mặt khác, pháp luật TTHC của Trung Quốc còn quy định cho Tòa án được quyền chủ động đề xuất Tòa án cấp dưới thực hiện tái thẩm khi nhận thấy có tình tiết mới mà không nhất thiết phải có đơn kháng nghị tái thẩm. Quy định này khá hay và mang tính chủ động cao, giúp cho các Tòa án bớt áp lực khi tái thẩm, tăng cường sự chủ động xét lại tái thẩm và rút gọn được các thủ tục như ở Việt Nam. Bởi vì ở Việt Nam, thủ tục tái thẩm VAHC chỉ phát sinh khi có đơn đề nghị kháng nghị, và dường như chúng ta đã có sự lệ thuộc vào đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm, thủ tục phát sinh tái thẩm còn quá chặt chẽ, đôi khi không kịp thời khắc phục, sửa chữa, các sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án. Bởi vậy, nhóm tác giả thiết nghĩ nên chăng Luật TTHC hiện hành cũng cần có sự nghiên cứu thấu đáo và có sự tiếp thu quy định trên của pháp luật TTHC của Trung Quốc. Dù rằng, việc thay đổi là rất khó nhưng trong bối cảnh hòa nhập với pháp luật thế giới chúng ta cũng cần đặt ra để mạnh mẽ thay đổi mang tính toàn diện và hiệu quả hơn.
Thứ hai, về gia hạn kháng nghị tái thẩm quá hạn do pháp luật quy định
Theo Luật TTHC Liên bang Nga, thời hạn kháng nghị tái thẩm là 3 tháng kể từ ngày phát sinh hoặc phát hiện ra các tình tiết làm cơ sở xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật[19]. Trường hợp hết thời hạn kháng nghị tái thẩm mà các chủ thể mới thực hiện kháng nghị tái thẩm thì Tòa án sẽ thụ lý đơn khi việc kháng nghị quá hạn đó vì lý do khách quan. Trường hợp kháng nghị tái thẩm quá hạn mà không phải vì lý do khách quan thì Tòa án có thẩm quyền sẽ từ chối thụ lý đơn kháng nghị tái thẩm. Khác với Nga, ở Việt Nam tại Điều 284 Luật TTHC chỉ quy định thời hạn kháng nghị tái thẩm của các chủ thể có thẩm quyền là 01 năm kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ kháng nghị tái thẩm. Nghĩa là ở Việt Nam, không có quy định về trường hợp kháng nghị tái thẩm quá hạn thì xử lý như thế nào? Tòa án có thẩm quyền tái thẩm sẽ từ chối hay vẫn tiếp tục thụ lý tái thẩm? Tác giả nhận thấy so với quy định của Nga, lối quy định của Luật TTHC Việt Nam chưa thực sự toàn diện, thiếu bao quát về trường hợp kháng nghị tái thẩm quá thời hạn luật định. Thiếu sót này có thể sẽ làm cho Tòa án có thẩm quyền gặp vướng mắc, lúng túng về xử lý các kháng nghị tái thẩm quá hạn, có thể tạo ra việc áp dụng pháp luật thiếu nhất quán giữa các Tòa án, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả tái thẩm của toàn ngành Toàn án, chưa tạo ra được niềm tin của nhân dân. Do đó từ lý lẽ này, nhóm tác giả kiến nghị Luật TTHC Việt Nam nên có điều khoản quy định về kháng nghị tái thẩm quá hạn theo cách mà Luật TTHC của Nga đã quy định. Theo đó, cần bổ sung vào Điều 284 về trường hợp kháng nghị tái thẩm quá hạn và cách thức xử lý tương tự như pháp luật TTHC của Nga.
Thứ ba, về trả lại đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm của đương sự
Ở nước ta, trả lại đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm của đương sự là một nội dung quan trọng của Luật TTHC. Mặc dù trong chương về tái thẩm không trực tiếp quy định về vấn đề trả lại đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm của đương sự nhưng lại được dẫn chiếu đến khoản 2 Điều 258 Luật TTHC[20]. Theo đó, nếu Tòa án, Viện kiểm sát yêu cầu đương sự bổ sung nội dung đơn và tài liệu kèm theo mà đương sự không thực hiện thì Tòa án, Viện Kiểm sát có quyền thông báo bằng văn bản trả lại đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm cho đương sự và ghi chú vào sổ nhận đơn. Theo quy định này, căn cứ để trả lại đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm của đương sự chỉ liên quan đến hành động đương sự không sửa đơn khi có yêu cầu từ Tòa án, Viện Kiểm sát. Tác giả nhận thấy, căn cứ trả đơn này có phần hẹp, chưa toàn diện để Tòa án, Viện Kiểm sát thực hiện chức năng của mình, có thể gây bất cập cho Tòa án, Viện Kiểm sát trong việc trả đơn. Khác với Việt Nam, Kyrgyzstan quy định về căn cứ trả đơn đề nghị kháng nghị có sự rõ ràng hơn, trong đó Kyrgyzstan có nêu căn cứ trả đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm nếu nhận thấy đơn đề nghị không có tình tiết mới. Do vậy, Luật TTHC Việt Nam nên quy định cụ thể về căn cứ trả lại đơn đề nghị tái thẩm của đương sự rõ ràng hơn như, đương sự không sửa đổi, bổ sung đơn theo yêu cầu; không có tình tiết mới được đề cập trong đơn; người làm đơn đề nghị không có quyền làm đơn… Thiết nghĩ nếu có căn cứ trả đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm rõ ràng sẽ tạo cơ sở để các Tòa án, Viện Kiểm sát thực hiện tốt chức năng của mình góp phần làm cho công tác xử lý đơn đề nghị của đương sự được thuận lợi, tránh những lúng túng không nên có như hiện nay, bảo đảm quy trình tố tụng hiệu quả không có vi phạm.
Kết luận
Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong TTHC ở Việt Nam là một trong những nội dung quan trọng, thể hiện đặc trưng của pháp luật Việt Nam, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến chất lượng, hiệu quả xét xử các VAHC của Tòa án, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Trong những năm qua, công tác kháng nghị theo thủ tục tái thẩm các VAHC không nhiều nhưng luôn là tâm điểm quan tâm của Nhà nước và chế định tái thẩm trong quy định của Luật TTHC cũng đã có bước hoàn thiện nhất định, làm nền tảng pháp lý khá ổn định để việc áp dụng, thực thi pháp luật có thống nhất, hiệu quả. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập pháp luật quốc tế, cận tiến tiếp thu những kinh nghiệm pháp luật nước ngoài cũng cần phải đặt ra, tạo cơ hội cho pháp lý Việt Nam phát triển và hoàn thiện hơn. Bài viết của tác giả đã nghiên cứu nội dung kháng nghị tái thẩm VAHC trong pháp luật của một số quốc gia và từ đó đề xuất các kiến nghị mang tính chất tham khảo.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Tố tụng hành chính Kyrgyzstan.
2. Luật Thủ tục hành chính Liên bang Nga.
3. Luật Tố tụng hành chính Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
4. Luật Tố tụng hành chính năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2025.
5. Báo cáo tổng kết công tác và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác của các Tòa án các năm 2021 đến năm 2024.
6. Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, 2017.
7. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, 2012.
8. Đại học Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2023.
[1] Luật Thủ tục tố tụng hành chính Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, https://www.spp.gov.cn/spp/fl/201802/t20180207_365256.shtml, truy cập ngày 09/9/2025.
[2] Xem Điều 91 Luật Thủ tục hành chính Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
[3] Xem Điều 93 Luật TTHC Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
[4] Xem Điều 92 Luật TTHC Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
[5] Xem Điều 101 Luật TTHC Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
[6] Xem Điều 209 Luật Tố tụng dân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
[7] Xem Điều 205 Luật Tố tụng dân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
[8] Bộ luật Thủ tục hành chính của Liên bang Nga, https://www.consultant.ru/document/cons_doc_LAW_176147/, truy cập ngày 09/9/2025.
[9] Xem khoản 1 Điều 346 Bộ luật Thủ tục hành chính Liên bang Nga.
[10] Xem Điều 350 Bộ luật Thủ tục hành chính Liên bang Nga.
[11] Xem khoản 1 Điều 350 Bộ luật Thủ tục hành chính Liên bang Nga.
[12] Xem khoản 2 Điều 350 Bộ luật Thủ tục hành chính Liên bang Nga.
[13] Xem khoản 1 Điều 346 Luật Thủ tục hành chính Liên bang Nga.
[14] Xem khoản 3 Điều 346 Luật Thủ tục hành chính Liên bang Nga.
[15] Bộ luật Thủ tục hành chính Cộng hòa Kyrgyzstan, https://cbd.minjust.gov.kg/3-28/edition/1265033/kg, truy cập ngày 09/9/2025.
[16] Xem Điều 268, 269 Bộ luật TTHC Kyrgyzstan.
[17] Xem Điều 274 Bộ luật TTHC Kyrgyzstan.
[18] Xem khoản 2 Điều 267 Bộ luật TTHC Kyrgyzstan.
[19] Xem khoản 1 Điều 346 Luật Thủ tục hành chính Liên bang Nga.
[20] Điều 286 Luật TTHC năm 2015.
Tòa án Hiến pháp Nga - Ảnh: TASS.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Chia tài sản khi nam nữ sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn – một số khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị
-
Lời cảm ơn của Ban Tổ chức concert “Việt Nam trong tôi”
-
Trao đổi bài viết “Chiếc ghe máy đánh bắt cá có được xác định là tài sản mà Phạm Hữu V đã trộm cắp của ông Nguyễn Văn C không?”
-
Cấn Thành Đ, Nguyễn Đức V, Nguyễn Đức A và Nguyễn Gia B có phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 không?
-
Bắt khẩn cấp “ông bầu” Cao Tiến Đoan
Bình luận