Không thể thu hồi số tiền của B, C, D và G

Sau khi nghiên cứu bài viết “Hiểu thế nào là bảo vệ người thứ ba ngay tình trong vụ án hình sự?” của tác giả Đỗ Bình Ngọc, đăng ngày 20/6/2024, tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất.

Thứ nhất, cần phải xác định việc giao dịch dân sự giữa A và B, C, D, G là giao dịch có hiệu lực theo quy định của pháp luật bởi vì cả 4 người B, C, D và G đều không biết số tiền họ được nhận từ A là tiền do phạm tội mà có và A cũng không nói về nguồn gốc số tiền này, vì vậy trong giao dịch dân sự này có đầy đủ các điều kiện được quy định tại Điều 117 BLDS và không thuộc trong các trường hợp về giao dịch vô hiệu được quy định trong BLDS.

Vì vậy, quan hệ vay mượn giữa họ và A là hợp pháp và việc họ nhận được tiền từ A phải được pháp luật tôn trọng là giao dịch có hiệu lực, họ không trách nhiệm phải nộp lại số tiền trên để bồi thường cho Công ty TNHH M. Người mà phải bồi thường thiệt hại cho Công ty TNHH M phải là Nguyễn Văn A.

Thứ hai, theo Điều 89 BLTTHS: “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.

Tuy nhiên, số tiền 4 tỷ mà A dùng để trả nợ lúc này là tài sản của chủ sở hữu mới là B, C, D và G, khoản tiền không còn sự quản lý của A. Tiền là vật đặc định đã hòa trộn trong tài khoản của người nhận một cách ngay tình và được chuyển hóa qua việc thanh toán trong các giao dịch dân sự cụ thể, do đó không còn là vật chứng trong vụ án nên không thu hồi trả cho các bị hại. Như vậy, trong trường hợp này thì Tòa án cũng không thể thể áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 47 BLHS để yêu câu B, C, D và G trả lại mỗi người 1 tỷ đồng được vì số tiền đó không phải là vật chứng trong vụ án.

 Từ những phân tích trên, để đảm bảo thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án và bảo đảm đúng theo quy định của pháp luật thì Tòa án phải áp dụng khoản 1, Điều 48; khoản 1 các Điều 586, 589 BLDS buộc bị cáo Nguyễn Văn A phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho Công ty TNHH M với tổng số tiền là 5 tỷ đồng; ghi nhận bị cáo đã nộp bồi thường được 1 tỷ đồng; buộc bị cáo còn phải bồi thường cho Công ty TNHH M 4 tỷ đồng.

Trên đây là quan điểm của tác giả trao đổi về vụ án rất mong nhận được nhiều ý kiến tranh luận của đồng nghiệp và bạn đọc.

TRẦN DUY KHÁ (Tòa án quân sự khu vực Quân khu 7)

Tòa án nhân dân huyện Đăk Tô, Kon Tum xét xử  vụ án hình sự - Ảnh: Minh Huy