Kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân

Kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là yêu cầu khách quan, cấp thiết của cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Đây là một lộ trình phức tạp, có nhiều nội dung, yêu cầu, với những giải pháp đồng bộ, khả thi đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045. Bài viết tiếp cận bước đầu về khái niệm, các đặc điểm chủ yếu và thực trạng của kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân; đồng thời, đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác này trong tình hình mới

Đặt vấn đề

Kiểm soát quyền lực nhà nước (QLNN) là yêu cầu khách quan, cấp thiết của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mở rộng, phát huy dân chủ, phòng và chống tham nhũng, tiêu cực trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam. Trong đó, kiểm soát QLNN trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân (TAND) là một lĩnh vực kiểm soát đặc biệt quan trọng, hướng đến thực hiện tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để thực hiện mục tiêu đó, rất cần có sự nhận thức thống nhất về lý luận, đánh giá đúng thực trạng, để từ đó, đề ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả cho lĩnh vực kiểm soát quyền lực này.

 1. Khái quát về kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân

Thứ nhất, kiểm soát QLNN, theo nghĩa chung nhất, là toàn bộ hoạt động của cá nhân, tổ chức được tiến hành theo các quy định về thẩm quyền, phương thức, quy trình nhằm ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ, những việc làm sai trái của Nhà nước, cơ quan, nhân viên nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện QLNN, bảo đảm cho QLNN được tổ chức và thực hiện theo đúng các quy định của Hiến pháp, pháp luật, đúng mục đích và có hiệu quả.

Với quan niệm như thế, kiểm soát QLNN trong hoạt động xét xử của TAND là một bộ phận, lĩnh vực của kiểm soát QLNN nói chung, bao gồm hoạt động của cá nhân, tổ chức được tiến hành theo các quy định về thẩm quyền, phương thức, quy trình nhằm ngăn ngừa, xử lý vi phạm pháp luật, bảo đảm cho QLNN trong lĩnh vực xét xử được tổ chức và thực hiện theo đúng các mục đích, nguyên tắc được xác lập, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Trên thực tế, kiểm soát QLNN trong hoạt động xét xử của Tòa án được thực hiện bằng nhiều cơ chế. Nếu tiếp cận theo chủ thể kiểm soát sẽ có: cơ chế tự kiểm soát của Tòa án các cấp; cơ chế kiểm soát của các cơ quan nhà nước (CQNN) khác và của các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội đối với Tòa án. Nếu tiếp cận từ góc độ không gian, kiểm soát sẽ có: cơ chế kiểm soát bên trong (Tòa án tự kiểm soát) và cơ chế kiểm soát từ bên ngoài (các CQNN, xã hội kiểm soát Tòa án). Nếu tiếp cận từ tính chất quyền lực kiểm soát sẽ có: cơ chế kiểm soát có tính QLNN (Tòa án và các CQNN khác) và cơ chế kiểm soát phi QLNN (Nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội). Mỗi cơ chế kiểm soát được hình thành trên cơ sở hệ thống các quy định của Hiến pháp, pháp luật có liên quan (thể chế kiểm soát) và được tổ chức thực hiện bởi hệ thống Tòa án các cấp, các CQNN khác có thẩm quyền và đội ngũ cán bộ, Thẩm phán, công chức tư pháp của các cơ quan đó (thiết chế kiểm soát). Mỗi một cơ chế đều có những ưu điểm và những hạn chế nhất định, nhưng cơ chế kiểm soát của Nhà nước được xem là phổ biến và hiệu quả hơn cả.

Thứ hai, kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử của TAND có một số đặc điểm cần lưu ý sau đây:

(i) Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động trung tâm của quyền tư pháp. Vì thế, kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử là bộ phận trọng yếu của kiểm soát quyền tư pháp. Kiểm soát hiệu quả QLNN trong hoạt động xét xử sẽ là tiền đề, điều kiện quan trọng để kiểm soát quyền lực trong hoạt động của các cơ quan như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), Cơ quan thi hành án, các cơ quan bổ trợ tư pháp (công chứng, giám định, luật sư).

(ii) Kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến hoạt động xét xử, làm suy giảm hiệu quả và hiệu lực của QLNN, các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp lý trong xã hội. Vì thế, kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử là hệ thống cơ chế, thể chế được thực hiện bởi Nhà nước và xã hội để xem xét, giám sát tính hợp pháp, tính đúng đắn của cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

(iii) Trong cơ chế kiểm soát hoạt động xét xử của Tòa án, thể chế và thiết chế có mối quan hệ lệ thuộc lẫn nhau: thể chế sinh ra thiết chế,  nhưng ngược lại, thể chế là sản phẩm của thiết chế. Không có thiết chế tốt, sẽ không có thể chế tối ưu và dù thể chế tối ưu cũng không được hiện thực hóa. Như vậy, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử phải được tiến hành đồng bộ, hài hòa giữa hoàn thiện thể chế và hoàn thiện thiết chế.

(iv) Một nguyên tắc đặc trưng, quan trọng trong Nhà nước pháp quyền là bảo đảm cho hoạt động xét xử của Tòa án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Vì vậy, cơ chế kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử phải hướng tới bảo đảm thực hiện tốt hơn nguyên tắc độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, chứ không phải làm “thui chột” hoặc vi phạm nguyên tắc đó. Đây là điều rất đáng lưu ý, vì không khó để nhận thấy những vấn đề bất cập trong nhận thức và áp dụng cơ chế kiểm soát hoạt động xét xử trong thực tế hiện nay.

2. Thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân

Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến lĩnh vực kiểm soát quyền lực, xem đó là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách nhằm làm trong sạch và vững mạnh hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước. Vì thế, về phương diện thể chế, đường lối chính trị của Đảng đã đặt nền tảng cho việc xây dựng, hoàn thiện thể chế về kiểm soát QLNN nói chung, trong đó có hoạt động xét xử nói riêng. Hiến pháp năm 2013 đã xác lập những nguyên tắc cao nhất về vấn đề này tại khoản 3 Điều 2: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” và khoản 2 Điều 103 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Cùng với đó, các chế định của Hiến pháp về Quốc hội (khoản 7, 8 Điều 70), Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khoản 4, 5 Điều 74), Chủ tịch nước (khoản 3 Điều 88) đều có những quy định liên quan đến kiểm soát hoạt động xét xử của Tòa án. Luật Tổ chức TAND năm 2014 đã cụ thể hóa các nguyên tắc, quy phạm của Hiến pháp năm 2013 về kiểm soát quyền lực trong các quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan này. Đặc biệt, Luật Tổ chức TAND năm 2024 được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 24/6/2024 đã có những quy định mới về tổ chức và hoạt động không chỉ nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Tòa án, mà còn nhằm tăng cường kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử tốt hơn. Trong thời gian gần đây, Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo rà soát, khắc phục những sơ hở, mâu thuẫn, chồng chéo, vướng mắc trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức bộ máy, quản lý kinh tế - xã hội, góp phần tạo lập hệ thống pháp luật đồng bộ, chặt chẽ, thống nhất, khả thi, nhằm kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả hơn. Đó cũng là sự đổi mới bước đầu quan trọng để tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 27-NQ/TW) và Quy định số 132-QĐ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án (sau đây gọi tắt là Quy định số 132-QĐ/TW). Trên cơ sở đổi mới về thể chế đó, tổ chức và nhân sự của TAND cũng có những thay đổi tích cực theo hướng phù hợp, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ trong thời gian qua.

Báo cáo tổng kết công tác năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm của năm 2024 của TAND tối cao cho thấy: trong tổng số 606.209 vụ việc được các Tòa án thụ lý trong năm, đã giải quyết được 540.490 vụ việc (đạt tỷ lệ 89,16%, cao hơn năm 2022 0,26%), trong đó, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan của Tòa án là 0,89%, thấp hơn năm trước 0,01%, đáp ứng yêu cầu Nghị quyết của Quốc hội và Tòa án đề ra là không quá 1,5%. Đặc biệt, với các vụ án lớn thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo đều được tổ chức xét xử nghiêm túc, đúng tiến độ, đúng pháp luật, theo tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Bên cạnh đó, TAND còn tổ chức thực hiện khá tốt các công tác quan trọng khác: giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; thực hiện hiệu quả một số nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp; tiếp tục sắp xếp, tổ chức bộ máy tinh gọn gắn với nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán, công chức và Hội thẩm nhân dân. Những kết quả rất đáng ghi nhận đó không thể tách rời sự quan tâm, nỗ lực thực hiện hiệu quả yêu cầu kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử của toàn hệ thống TAND.

Tuy vậy, Báo cáo nói trên cũng đã thẳng thắn chỉ ra một số hạn chế, thiếu sót trong năm về tỷ lệ bản án, quyết định hành chính bị hủy, sửa còn cao; một số vụ việc giải quyết quá thời hạn luật định do nguyên nhân chủ quan; một số Tòa án cấp huyện chưa tổ chức phiên tòa trực tuyến do thiếu phương tiện. Công tác cán bộ còn những bất cập; sự phối hợp với các cơ quan liên quan trong thực hiện nhiệm vụ chưa tốt... Mặc dù không diễn đạt trực tiếp, song, nhiều nguyên nhân của các hạn chế, thiếu sót này đều có liên quan đến hiệu quả của kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử. Điển hình cho hiện tượng quyền lực không được kiểm soát dẫn tới lợi dụng quyền, lạm quyền trong hoạt động xét xử, dẫn đến việc một số Thẩm phán và các chức danh khác bị xử lý kỷ luật và hình sự. Thực trạng này cho thấy, ngoài những nguyên nhân khách quan, còn có sự chưa hoàn thiện về thể chế và thiết chế về kiểm soát quyền lực đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Thực tế đó cùng với nguyên nhân của nó cần được nhận thức thấu đáo để có giải pháp kịp thời, hữu hiệu, nhằm khắc phục hạn chế, thiếu sót để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát quyền lực đối với hoạt động xét xử trong thời gian tới.

3. Một số giải pháp tăng cường kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân trong tình hình mới

Một là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN nói chung làm tiền đề cho việc hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử của Tòa án. Đây cũng là một trong 07 nhiệm vụ chủ yếu được Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nêu ra tại Phiên họp thứ 25 và yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng tập trung chỉ đạo thực hiện trong năm 2024. Trước mắt, cần tập trung cho việc triển khai tổ chức thực hiện Luật Tổ chức TAND năm 2024 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025) với các quy định cụ thể và hướng dẫn thực hiện các quy định mới về tổ chức và hoạt động của các cấp Tòa án, nhất là những quy định mới so với Luật Tổ chức TAND năm 2014. Cùng với đó, tiếp tục rà soát các quy phạm tố tụng trong hệ thống pháp luật có liên quan đến kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử để sửa đổi, bổ sung nhằm hạn chế tối đa tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động xét xử. Trọng tâm của việc hoàn thiện thể chế này chính là yêu cầu giải quyết hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật với kiểm soát, ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực trong hoạt động xét xử.

Hai là, triển khai thực hiện có hiệu lực, hiệu quả Nghị quyết số 27-NQ/TW và Quy định số 132-QĐ/TW trong toàn hệ thống Tòa án, nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ quản lý, Thẩm phán, công chức và Hội thẩm nhân dân của Tòa án các cấp trong tình hình mới. Đây cũng chính là một nội dung, nhiệm vụ của cơ chế tự kiểm soát (kiểm soát bên trong) của hệ thống Tòa án. Thực hiện tốt điều này là tạo lập tiền đề quan trọng cho việc nâng cao ý thức tự kiểm soát, để từ đó, tác động tích cực đến hành vi kiểm soát quyền lực của các chủ thể tham gia hoạt động xét xử. Phải làm cho cán bộ quản lý, Thẩm phán và công chức Tòa án thấm nhuần được nhiệm vụ vinh quang của Tòa án là  “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013). Nhiệm vụ và sứ mệnh đó chính là yêu cầu về kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử của Tòa án. Điều quan trọng là, không chỉ quán triệt, học tập, mà phải cụ thể hóa kết quả nâng cao nhận thức thành cam kết cụ thể của cá nhân, tập thể về trách nhiệm và hậu quả pháp lý - chính trị của họ nếu vi phạm cam kết.

Ba là, nâng cao hiệu quả cơ chế tự kiểm soát của Tòa án, coi đó là điều kiện quyết định của cơ chế kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử hiện nay. Thực tế cho thấy, ở đâu thực hiện tốt cơ chế này với những hình thức, phương pháp thiết thực thì đều chưa có vi phạm pháp luật, chưa có vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong xét xử và ngược lại. Trong cơ chế tự kiểm soát của Tòa án, vai trò tự kiểm soát của từng Thẩm phán là trọng yếu, bởi vì chính họ là nhân tố quyết định hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử. Vì rằng, như M.T.Sisero - một luật gia La Mã cổ đại - từng nói: “Một đạo luật tốt chỉ mới là vị quan tòa câm, còn một quan tòa tốt thì đó là một đạo luật biết nói”. Cùng với đó, cần có thêm nhiều biện pháp thiết thực nhằm nâng cao trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án và các công chức khác đối với việc kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử. Đặc biệt, phải đề cao và ràng buộc trách nhiệm đối với người đứng đầu, của cấp ủy các Tòa án khi trong đơn vị xảy ra những hành vi bị cấm được quy định tại Điều 6, 7 Chương 2 Quy định số 132-QĐ/TW. Trong đó, những hành vi của người đứng đầu từ thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, bao che, dung túng, tiếp tay hành vi vi phạm, cho đến can thiệp, chỉ đạo, ép buộc cấp dưới làm trái quy định... phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Đồng thời, kiểm soát quyền lực bên trong của Tòa án không thể tách rời yêu cầu tăng cường hiệu lực, hiệu quả của các công tác khác có liên quan như: xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động xét xử.

Bốn là, tăng cường hiệu quả cơ chế kiểm soát từ bên ngoài (bao gồm cơ chế QLNN và cơ chế phi QLNN) đối với hoạt động xét xử của Tòa án như là một cơ chế hỗ trợ, bù đắp những điểm yếu của cơ chế tự kiểm soát (tính khách quan, tự giác không cao). Với bản chất của mình, kiểm soát quyền lực từ bên ngoài của các CQNN (Cơ quan điều tra, VKSND, cơ quan QLNN) và của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, của người dân đối với Tòa án là khách quan hơn cơ chế tự kiểm soát của cơ quan này. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy, điểm yếu của cơ chế này (nhất là cơ chế phi QLNN) là tính chuyên môn, nghiệp vụ, tính hình thức không cao, không thường xuyên. Vì vậy, quan điểm đúng đắn sẽ là kết hợp chặt chẽ, hiệu quả các cơ chế kiểm tra, giám sát QLNN của Đảng, Nhà nước và Nhân dân để kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử. Để đạt được mục tiêu đó, cần rà soát để sửa đổi, hoàn thiện thể chế liên quan đến tổ chức và hoạt động của các chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử từ bên ngoài. Trong đó có chức năng kiểm sát xét xử của VKSND.

Năm là, tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới chế độ, chính sách nhằm bảo đảm nguồn lực để xây dựng Tòa án chính quy, hiện đại, hoạt động hiệu quả; chú trọng phát triển Tòa án điện tử ngang tầm với trình độ phát triển chung của thế giới. Trong đó, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động xét xử đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng của giai đoạn mới là nội dung cốt lõi. Theo báo cáo của Chánh án TAND tối cao, có một thực tế rất đáng lo ngại là, biên chế của toàn hệ thống Tòa án là 15.500 người, nhưng số cán bộ nghỉ việc hàng năm khoảng 4,5% (khoảng 700-800 người). Đáng nói là, trong số người nghỉ việc đó, có không ít người là Thẩm phán và công chức có năng lực, kinh nghiệm mà nguyên nhân không hoàn toàn là do lương thấp mà do áp lực quá tải của công việc[1]. Vì vậy, đổi mới chính sách, bảo đảm biên chế, chế độ tiền lương và cơ chế, môi trường làm việc là điều kiện cấp thiết để cán bộ Tòa án, nhất là đội ngũ Thẩm phán, yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp trong công việc.

Song song với đó, hiện đại hóa công sở theo hướng chuyển đổi số, xây dựng Tòa án điện tử, áp dụng công nghệ hiện đại... không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử, mà còn hỗ trợ cho yêu cầu kiểm soát quyền lực, phòng và chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động xét xử của TAND hiện nay.

KẾT LUẬN

Tăng cường kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử là một yêu cầu, nhiệm vụ trọng đại của tiến trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh nhiều thành tựu bước đầu rất đáng được ghi nhận, phát huy, vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập trong lĩnh vực kiểm soát quyền lực đặc thù này cần được nhận thức thấu đáo về nguyên nhân và những vấn đề đặt ra. Các giải pháp trên đây tuy chưa thật bảo đảm về tính toàn diện, tính khả thi, song, đó là những đề xuất bước đầu, gợi ý để tiếp tục hoàn thiện.

Nguồn Tạp chí TAND số 19 năm 2014.

TS. VŨ ANH TUẤN - TS. HOÀNG THỊ THU THỦY (Học viện Chính trị Khu vực III )

Tài liệu tham khảo

1. Hiến pháp năm 2013.

2. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024.

3. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

4. Quy định số 132-QĐ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.


[1] Cán bộ Tòa án nghỉ việc, thiếu biên chế, tổ chức bộ máy chưa khoa học,… trách nhiệm của Chánh án như thế nào?, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/can-bo-nghi-viec-thieu-bien-che-to-chuc-bo-may-chua-hop-ly-trach-nhiem-cua-chanh-an-tandtc-nhu-the-nao-119230320142611577.htm, truy cập ngày 23/8/2024.