Kinh nghiệm quốc tế về thuế các-bon và kiến nghị hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam
Thuế các-bon có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế bền vững theo Chương trình Nghị sự toàn cầu về phát triển đến năm 2030. Tuy nhiên, với Việt Nam, việc áp dụng thuế các-bon cần được xem xét qua nhiều khía cạnh. Trong bài viết, tác giả phân tích xu hướng áp dụng thuế các-bon của một số nước trên thế giới, đối chiếu với các sắc thuế liên quan đến môi trường ở Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề này.
Đặt vấn đề
Trước những hậu quả của biến đổi khí hậu như hiện nay, nhiều quốc gia đã xây dựng các chính sách hướng tới việc giảm phát thải, cùng chung tay ứng phó và cam kết giảm xả thải vào môi trường. Các công cụ kinh tế phổ biến hiện nay mà các quốc gia thực hiện nhiều nhất là chính sách thuế các-bon và thị trường tín chỉ các-bon. Trong đó nhiều quốc gia đã xây dựng và áp dụng thuế các-bon một thời gian và cho thấy tính ưu việt và hiệu quả của nó trong việc giảm phát thải và thúc đẩy tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, việc triển khai thuế các-bon đòi hỏi nghiên cứu kỹ lưỡng kinh nghiệm quốc tế để đưa ra chính sách phù hợp, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Để có thể hòa hợp với hệ thống thuế quốc tế đồng thời hoàn thiện các cam kết về giảm phát thải, và việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về thuế các-bon là cần thiết để xây dựng khung pháp lý hiệu quả. Bài viết này nhằm phân tích kinh nghiệm quốc tế về thuế các-bon và đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật tại Việt Nam, góp phần đạt được mục tiêu giảm phát thải và phát triển bền vững.
1. Khái niệm, vai trò của thuế các-bon
Thuế các-bon là loại thuế được đánh vào hàm lượng các-bon của nhiên liệu hóa thạch. Thuật ngữ này cũng có thể đề cập đến việc đánh thuế các loại khí thải nhà kính khác, chẳng hạn như khí mê-tan. Thuế các-bon định giá cho những khí thải đó để khuyến khích người tiêu dùng, doanh nghiệp và chính phủ sản xuất ít hơn1. Có thể hiểu, thuế các-bon là công cụ nhằm giúp hạn chế phát thải quá mức dựa trên việc đánh thuế các hoạt động khai thác, sử dụng các tài nguyên thiên nhiên dẫn đến việc phát thải khí các-bon vào trong môi trường.
Thuế các-bon là một nội dung điển hình cụ thể hóa cho nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, theo đó, thuế các-bon sẽ góp phần phản ánh những chi phí xã hội "không thể định giá" liên quan đến các tác động có hại của khí thải này đến môi trường, từ đó người sản xuất cũng như người tiêu dùng sẽ thay đổi xu hướng và hành vi phát thải nhằm làm giảm lượng khí thải đồng thời làm giảm các chi phí cho chính họ cũng như cho xã hội đối với bù đắp những phí tổn của việc phát thải CO2 như chi phí khôi phục môi trường2. Nói cách khác, thuế các-bon được thiết kế để giảm thiểu và bù đắp các chi phí xử lý những tiêu cực từ các hành vi phát thải CO2.
Nhìn chung, thuế các-bon đóng một vai trò quan trọng trong nhiều khía cạnh đối với việc giảm phát thải khí nhà kính, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế bền vững. Cụ thể:
Thứ nhất, giúp làm thay đổi hành vi khai thác, sử dụng của người phát thải. Nguyên tắc của thuế các bon là Nhà nước sẽ thu một khoản thuế để tương ứng với lượng các-bon được thải ra từ hành vi khai thác, sử dụng của người phát thải. Chính vì vậy, khi các chủ thể, đặc biệt là doanh nghiệp than, dầu, khí gaz… có lượng phát thải rất lớn sẽ phải chịu chi phí thuế cao hơn, ảnh hưởng đến tổng chi phí sản xuất, buộc doanh nghiệp sẽ phải tìm ra những năng lượng xanh, thân thiện với môi trường, nhằm giảm chi phí, tối ưu hóa lợi nhuận. Do đó, thuế các-bon sẽ giúp mỗi quốc gia điều tiết vào hành vi phát thải vào môi trường.
Thứ hai, giúp thúc đẩy việc sử dụng và phát triển các năng lượng tái tạo. Việc các chủ thể dần chuyển hướng sang sử dụng các năng lượng tái tạo, thân thiện với môi trường để giảm chi phí cho thuế các-bon là một nền tảng vững chắc để nghiên cứu, phát triển và phổ biến những loại năng lượng mới thúc đẩy việc phát triển bền vững gắn với việc bảo vệ môi trường.
Thứ ba, giúp tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước để thực hiện việc bảo vệ môi trường. Việc thúc đẩy đầu tư, sản xuất, sử dụng năng lượng tái tạo cũng như khôi phục hậu quả của việc xả thải vào trong không khí cần phải có nguồn tài chính lớn để thực hiện. Dưới góc độ kinh tế, nhiều quốc gia vận dụng các nguồn lực tài chính tư nhân thông qua quy định ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng,... đối với các dự án trong lĩnh vực môi trường, năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn chưa được nhiều sự quan tâm, bởi lẻ, ngành công nghiệp năng lượng xanh đòi hỏi sự đầu tư lớn về vốn, nhân lực trình độ cao và máy móc hiện đại. Trong khi, việc thu thuế các-bon thu từ chủ thể có hành vi phát thải khí nhà kính sẽ giúp Nhà nước chủ động nguồn tài chính để chi cho nghiên cứu và phát triển quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo3.
Tóm lại, thuế các-bon là một trong những công cụ kinh tế hữu hiệu để thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính, ngăn chặn biến đổi khí hậu toàn cầu. Tuy nhiên, việc vận dụng thuế các-bon còn tùy thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội, chính sách bảo vệ môi trường mà mỗi quốc gia hướng đến. Ngoài ra, việc áp dụng thuế các-bon cũng cần có lộ trình và có cân nhắc đến các loại thuế khác trong hệ thống thuế quốc gia, tránh việc đánh thuế nhiều lần tạo ra gánh nặng cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh.
2. Kinh nghiệm quốc tế trong việc áp dụng thuế các-bon
Thuế các-bon không chỉ là công cụ hiệu quả góp phần vào các chính sách môi trường, nó còn được biết đến là một nguồn thu góp phần đáng kể vào ngân sách của một quốc gia. Theo các đánh giá cho thấy các nước Đông Nam Á có thể tăng nguồn thu ngân sách thêm 0,5% đến 2% vào năm 2020 nếu áp dụng mức thuế 20 USD/tấn CO2. Điển hình như Trung Quốc, nếu quốc gia này áp dụng thuế các-bon ở mức 20 USD/tấn CO2 thì có thể tạo ra nguồn thu lên tới 2,5% GDP vào năm 2020.
Đến thời điểm hiện nay đã có rất nhiều quốc gia trên thế giới quy định và áp dụng thuế các-bon như EU, Pháp, Anh, Úc, Ireland… Những nghiên cứu, đánh giá của các Tổ chức quốc tế như OECD, Ngân hàng thế giới, UNDP đã cho thấy, sử dụng thuế các-bon có tác động tích cực trong giảm lượng phát thải khí CO2. Năm 2016, số lượng các quốc gia áp dụng công cụ thuế các-bon để giảm thiểu khí thải nhà kính tăng gấp khoảng 2 lần, từ 20 nước lên tới gần 40 nước, so với năm 20124.
Tại Ireland, quốc gia này bắt đầu áp dụng thuế các-bon từ năm 2010 cho tất cả lượng khí thải CO2 từ các lĩnh vực phi thương mại như nông nghiệp, giao thông, nhiệt trong các tòa nhà, chất thải… Mức thuế suất tăng từ 15 EUR (17 USD)/tấn vào năm 2010 và 2011 lên 20 EUR (23 USD)/tấn từ năm 2012. Còn ở Pháp, thuế các-bon có hiệu lực vào ngày 01/4/2014, với mức thuế suất là 7 EUR (8 USD)/tấn CO2, tăng lên 24 EUR (27 USD)/tấn vào năm 2016. Ngày 22/7/2015, Pháp chính thức thông qua Luật Năng lượng hướng tới tăng trưởng xanh, bổ sung mức thuế các-bon cho năm 2020 và 2030 lần lượt là 56 EUR (62 USD)/tấn vào và 100 EUR/tấn (110 USD/tấn). Ở Anh áp dụng thuế các-bon từ năm 2013, với mức thuế suất 4,94 GBP (7 USD)/tấn CO2, tăng lên 18,08 GBP (26 USD)/tấn CO2 vào tháng 01/2015. Đến năm 2016 - 2017 và 2017 - 2018, mức thuế tăng lên lần lượt là 21,2 GBP (30 USD) và 24,62 GBP (35 USD) mỗi tấn CO2. Tại Úc, thuế các-bon được áp dụng từ ngày 01/7/2012 và duy trì ở mức thuế suất 26 USD/tấn CO25.
Nghị viện EU đã bỏ phiếu thông qua Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon, Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (The EU's Carbon Border Adjustment Mechanism - CBAM) sẽ đánh thuế các-bon đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào thị trường các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU) dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất tại nước sở tại. Trong giai đoạn đầu, CBAM sẽ tập trung vào các nhóm hàng hóa có nguy cơ rò rỉ Các-bon cao nhất là xi măng, sắt và thép, nhôm, phân bón, Hydrogen và Điện. Đây là những lĩnh vực chiếm tới 94% lượng khí thải công nghiệp của EU6.
Tại singapore, thuế các-bon được áp dụng cho tất cả các cơ sở công nghiệp có lượng phát thải khí nhà kính trực tiếp hàng năm ít nhất 25.000 tấn các-bon dioxide tương đương (tCO2e). Mức thuế các-bon ban đầu được ấn định ở mức 5 đô la/tấn cho giai đoạn 2019 - 2023, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thời gian chuyển tiếp để điều chỉnh, và sau đó tăng lên đến 25 đô lấn/tấn vào năm 2024 - 2025 và 45 đô la/tấn vào năm 2026 và 2027 và sẽ phấn đấu đạt mức giá từ 50 đến 80 đô la một tấn vào năm 2030. Thuế các-bon được sử dụng để hỗ trợ các nỗ lực khử cacbon, chuyển đổi sang nền kinh tế xanh7.
Như vậy, về tổng thể, thuế các-bon của các nước được áp dụng độc lập hoặc được áp dụng bổ sung với chủ yếu 3 mô hình là độc lập, tích hợp và tổng hợp vào các loại thuế hiện hữu trong hệ thống thuế quốc gia đang điều tiết vào hành vi phát thải khí nhà kính 8. Và mục đích của nguồn thu này được sử dụng cho việc xây dựng nền kinh tế các-bon thấp và hỗ trợ cho các chủ thể dễ bị tổn thương bởi thuế các-bon như các cá nhân, hộ gia đình có mức thu nhập thấp9. Có thể khái quát các yếu tố của thuế các-bon như sau10:
Người nộp thuế
Người nộp thuế các-bon theo pháp luật của các quốc gia hiện nay là các chủ thể khai thác, sử dụng nhiên liệu dẫn đến việc phát thải nhà kính, chủ yếu bao gồm: (i) các nhà sản xuất, nhập khẩu và phân phối nhiên liệu ở phía cung cấp nhiên liệu; (ii) chủ thể liên quan đến tiêu thụ nhiên liệu bao gồm các tổ chức, cá nhân có phát thải. Một số quốc gia như Hà Lan quy định cả hai chủ thể trên đều phải nộp thuế các-bon.
Đối tượng chịu thuế
Thuế các-bon bản chất được đánh vào khí nhà kính phát ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt như là các loại nhiên liệu hóa thạch được sử dụng rộng rãi trong sản xuất và đời sống như dầu thô, than đá, khí gaz tự nhiên,… Tuy nhiên, một số nước sẽ dựa trên cơ cấu ngành công nghiệp tạo ra nguồn phát thải để quy định các đối tượng chịu thuế các-bon, chẳng hạn như ở Anh, các ngành công nghiệp chính của đất nước này là công nghiệp dịch vụ và năng lượng, lượng khí thải các-bon chủ yếu đến từ sản xuất điện, do đó, thuế Các-bon ở Anh áp dụng đối với lượng khí thải các-bon từ lĩnh vực điện và các chủ thể có lượng tiêu thụ lớn.
Căn cứ tính thuế
Về cơ sở tính thuế, các quốc gia hiện nay đánh thuế các-bon chủ yếu dựa trên hàm lượng các-bon có trong nhiên liệu, hoặc lượng các-bon phát thải ra trên thực tế. Một số quốc gia vận dụng các cơ sở tính thuế linh hoạt dựa trên điều kiện kinh tế, xã hội, cơ sở vật chất đáp ứng việc đo lường hàm lượng các-bon hoặc lượng khí thải các-bon để có cơ sở tính thuế phù hợp nhất. Chẳng hạn như đề xuất Đạo luật cạnh tranh sạch của Hoa Kỳ năm 2022 chọn đánh thuế hàm lượng các-bon tương đối. Nếu hàm lượng các-bon của một sản phẩm vượt quá mức cơ bản, thuế các-bon sẽ được đánh vào phần vượt quá.
Thuế suất
Hầu hết các quốc gia sẽ áp dụng mức thuế suất cụ thể trên 01 tấn các-bon, mức thuế giao động từ dưới 5 USD/tấn các-bon đến hơn 130 USD/tấn các-bon, và đều có lộ trình thay đổi linh động. Tuy nhiên, một số quốc gia khác như Phần Lan chọn hệ thống thuế lũy tiến vượt mức và thuế suất các-bon sẽ tỷ lệ thuận với lượng khí thải các-bon; Còn tại Đan Mạch sẽ áp dụng các tiêu chuẩn thu gom dành riêng cho ngành và lượng khí thải các-bon trong các ngành công nghiệp sưởi ấm, chiếu sáng và sản xuất bị đánh thuế ở mức 100%, 90%, và 25%.
Ưu đãi thuế
Việc áp dụng chính sách thuế các-bon sẽ hạn chế phần nào đó việc phát triển các lĩnh vực kinh tế, vì vậy việc xây dựng các chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế là cần thiết để hỗ trợ các chủ thể trong quá trình chuyển đổi xu hướng tiêu dùng năng lượng, và giữ vững cân bằng kinh tế. Một số quốc gia áp dụng ưu đãi hướng tới các nhóm:
- Các doanh nghiệp sử dụng năng lượng hoạt động trong một số lĩnh vực trọng điểm kinh tế.
- Các chủ thể sản xuất, kinh doanh khai thác đáp ứng tiêu chuẩn giảm phát thải theo quy định.
- Các chủ thể tiêu thụ năng lượng, phát thải khí là nhóm dân cư, cá nhân, chẳng hạn như áp dụng ưu đãi thuế cho hộ gia đình sử dụng năng lượng trong các nghành nông, lâm, chăn nuôi và thủy sản, hoặc giảm thu nhập cá nhân đối với số tiền nộp thuế này.
- Các chủ thể có thể phải chịu đánh thuế 02 lần liên quan đến thuế các-bon. Thuế các-bon ở một số bản chất tương tự như các thuế liên quan đến môi trường khác, do đó, để tránh việc đánh thuế hai lần, các quốc gia có thể thực hiện việc cân đối việc thu loại thuế này với việc thu các loại thuế khác tương tự thông qua các chính sách miễn, giảm thuế.
Như vậy, các quốc gia trên thế giới đã triển khai các chính sách thuế các-bon trong những thập kỷ gần đây và đạt được hiệu quả bảo vệ môi trường đáng kể. Mỗi quốc gia đều có chính sách áp dụng thuế các-bon khác nhau, đảm bảo cân bằng phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường11. Điều này cho thấy những tín hiệu tích cực cũng như xu hướng phát triển nền kinh tế xanh, bền vững ở nhiều quốc gia trên thế giới và đồng thời cũng đặt ra vấn đề áp dụng thuế các-bon ở một số quốc gia còn lại trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
3. Quy định liên quan đến thuế các-bon ở Việt Nam hiện nay
Trong hệ thống thuế Việt Nam, đang có 02 loại thuế điều chỉnh các sản phẩm, hàng hóa liên quan đến môi trường là thuế bảo vệ môi trường và thuế tài nguyên, đây là các đạo thuế có nét tương đồng nhất với thuế các-bon hiện nay. Ngoài ra, Việt Nam cũng xây dựng hệ thống các loại phí, lệ phí liên quan đến môi trường dựa trên các nguyên tắc như người hưởng lợi phải trả tiền để nhằm đến mục đích bảo vệ môi trường, trong đó bao gồm vả mục tiêu giảm phát thải.
Xét về thuế tài nguyên thu, đây là loại thuế đánh vào các hành vi khai thác tài nguyên thiên nhiên như các khoáng sản, dầu thô, khí đốt, khí than, rừng, nước… Hầu hết toàn bộ số thuế thu được từ các hành vi này sẽ được phân bổ vào ngân sách địa phương. Tuy nhiên, hiện không các quy định tách rời khoảng thu này nhằm vào mục đích khôi phục và bảo vệ môi trường, đây là điểm khác biệt giữa thuế tài nguyên ở nước ta và thuế các-bon. Do đó, thuế tài nguyên chưa tập trung vào các hoạt động dẫn tới việc phát khí thải nhà kính, và mục giảm khí thải cũng chưa được xác định là mục tiêu chính yếu của đạo luật thuế này. Chính vì vậy, về mặt tương thích với thuế các-bon, thuế tài nguyên ở Việt Nam chưa thể “thay thế” hoàn toàn các quy định về thuế các-bon theo tiêu chuẩn quốc tế đang theo đuổi. Còn đối với thuế bảo vệ môi trường tại Việt Nam nhằm đến các hoạt động sản xuất, nhập khẩu các hàng hóa khi sử dụng có thể dẫn đến các tác hại tiêu cực đối môi trường, như xăng, dầu, mỡ nhờn, than đá... Trong đó, thuế bảo vệ môi trường xác định dựa trên mức độ gây thiệt hại đến môi trường của các loại hàng hóa thuộc đối tượng điều chỉnh của loại thuế này, do đó, thuế bảo vệ môi trường đã góp phần quan trọng điều chỉnh các vấn đề về môi trường ở Việt Nam, trong đó bao gồm cả việc giảm khí thải nhà kính và khuyến khích chuyển đổi xanh. Thuế bảo vệ môi trường được xây dựng dựa trên cơ sở “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Vì vậy, ở nhiều khía cạnh, thuế bảo vệ môi trường được xem là tương đồng với thuế các-bon nhất hiện nay trong hệ thống thuế Việt Nam. Tuy nhiên, nhược điểm của thuế bảo vệ môi trường là áp dụng mức thuế tuyệt đối cố định, không có sự linh hoạt thay đổi quan một khoảng thời gian dài, đồng thời việc xem xét cơ sở tính thuế cũng chưa đáp ứng các tiêu chuẩn xác định các vấn đề về lượng khí thải/hàm lượng các-bon trong nhiên liệu, điều này chưa phản ánh rõ ràng mức thuế đối với các-bon, nên trên thực tế, đạo thuế này vẫn chưa thể hiện vai trò giảm phát thải khí nhà kính đáng kể. Cũng tương tự như thuế tài nguyên, nguồn thu thuế bảo vệ môi trường chưa được tách riêng khỏi nguồn thu của các cấp ngân sách để đầu tư trở lại cho lĩnh vực môi trường. Chính những điểm còn hạn chế của 02 đạo thuế này, để thực hiện mục tiêu giảm phát thải, Việt Nam nhất thiết nên xây dựng và áp dụng các quy định liên quan đến thuế các-bon12.
4. Đề xuất một số vấn đề liên quan đến thuế các-bon tại Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống quy định rõ ràng về thuế các-bon, dù đã cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Các quy định liên quan đến giảm khí thải hiện được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP và Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg và các luật thuế hiện hành như Luật Thuế bảo vệ môi trường, chỉ áp dụng với một số loại nhiên liệu, khiến các hoạt động phát thải lớn trong các ngành thép, xi măng… chưa bị điều chỉnh hiệu quả13.
Trên cơ sở 03 mô hình thuế các-bon đang được các nước trên thế áp dụng như hiện nay và tình hình kinh tế, xã hội của Việt Nam hiện nay, mỗi mô hình sẽ có ưu và nhược điểm, cũng như có thời gian, và điều kiện áp dụng phù hợp.
Mô hình thứ nhất là xây dựng thuế các-bon là một đạo thuế độc lập. Trong trường hợp Việt Nam nghiên cứu xây dựng thuế các bon trong một loại thuế riêng biệt, các chuyên gia khuyến khích chúng ta xem xét, áp dụng các mô hình tương đồng với chúng ta trong khu vực. Theo Giáo sư Paul Burke, Việt Nam có thể tham khảo cách tiếp cận của Singapore trong việc đánh thuế các-bon14. Việc áp dụng thuế các-bon theo một lộ trình ở Singapore có sự điều chỉnh linh hoạt với sự phát triển kinh tế, xã hội và nhằm đến ổn định cơ cấu các ngành kinh tế, sẽ đảm bảo vấn đề giảm khí thải, giúp các chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực liên quan có thời gian chuẩn bị và thích nghi. Đồng thời cũng sẽ không làm mất đi lợi thế xuất khẩu của các ngành thép, xi măng ở các thị trường coi trọng vấn đề giảm phát thải như EU. Bên cạnh đó, cũng giúp tạo nguồn thu riêng biệt hỗ trợ nguồn lực đáng kể để thực hiện các hoạt động liên quan trực tiếp đến bảo vệ môi trường, giảm phát thải.
Tuy nhiên, mô hình này đòi hỏi Việt Nam khắc phục một số khó khăn như có một thời gian dài nghiên cứu, xây dựng quy định, thậm chí áp dụng thí điểm đối với một số lĩnh vực, hàng hóa. Trong quá trình nghiên cứu, ban hành quy định về thuế các-bon cần nhận diện và tránh được sự chồng chéo với các quy định về môi trường có liên quan đang được áp dụng. Bên cạnh đó, áp dụng thuế các-bon đặt ra yêu cầu xây dựng cơ chế quản lý (bao gồm cả nhân lực và kỹ thuật), hệ thống giám sát, báo cáo và thẩm tra (MRV) để đảm bảo quản lý các đối tượng phát thải chịu thuế một cách minh bạch, hiệu quả.
Mô hình thứ hai là tích hợp thuế các-bon vào thuế bảo vệ môi trường, trước hết là vì các điểm tương thích giữa chúng. Bên cạnh đó, việc tích hợp thuế các-bon vào thuế bảo vệ môi trường không làm thay đổi quá nhiều trong hệ thống thuế Việt Nam, dễ đạt được sự chấp thuận của xã hội hơn mô hình thứ nhất. Ngoài ra, việc quản lý thuế các-bon hoàn toàn có thể được tiếp tục thực hiện trên cơ sở giữ nguyên cơ chế quản lý thuế bảo vệ môi trường như hiện nay, nên giảm nhẹ được áp lực từ khâu quản lý. Hạn chế của phương án này là nguồn thu từ thuế các-bon sẽ không tách rời để chi cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Đồng thời, việc xác định lượng khí thải các-bon từ các nhiên liệu có thể chỉ mang tính tương đối, sẽ không phải áp dụng quá nhiều kỹ thuật trong việc kiểm kê, quản lý lượng khí thải. Hạn chế này sẽ làm giảm vai trò của thuế các-bon trong việc thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và dễ dẫn đến sự lạc hậu, cứng nhắc như vướng mắc của Luật Thuế bảo vệ môi trường như hiện nay15.
Mô hình thứ ba tổng hợp thuế các-bon cùng với việc phát triển thị trường các-bon. Đây có thể được đánh giá là sự kết hợp tốt nhất để giảm khí thải hiện nay mà một số nước Pháp, Bồ Đào Nha đã áp dụng khá thành công. Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này, đòi hỏi Việt Nam cũng phải đáp ứng các điều kiện kỹ thuật như mô hình thứ nhất. Thêm vào đó, thị trường tín chỉ các-bon ở Việt Nam chỉ mới hình thành và đi vào vận hành một thời gian ngắn gần đây, rõ nét nhất là từ Luật Thuế bảo vệ môi trường 2020, và vẫn đang trong tiến trình bắt đầu, vì vậy, việc tổng hợp cả thuế các-bon và thị trường các-bon trong thời gian này có thể tạo ra nhiều thử thách, khó thích nghi hoạt động hiệu quả, đặc biệt là cơ sở vật chất cho nước đang phát triển như Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian này, Việt Nam chưa thể áp dụng mô hình thứ ba.
Các mô hình thuế các-bon đều có những phù hợp và hạn chế nhất định với điều kiện của Việt Nam. Trong đó nhiều nghiên cứu cho thấy Việt Nam có thể cân nhắc áp dụng mô hình thứ hai bởi sự hiệu quả, tiết kiệm được thời gian, chi phí nghiên cứu, quản lý của nó. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, Việt Nam nên suy xét đến lộ trình áp dụng mô hình thứ nhất và hướng tới hoàn thiện áp dụng mô hình thứ ba. Cụ thể, trong bối cảnh hiện nay, việc áp dụng mô hình thứ hai sẽ là tối ưu nhất trong thời gian triển khai thực hiện, khi mà các vấn đề về giảm khí thải chưa được phổ biến ở nước ta, việc áp dụng mô hình hai cũng giúp các chủ thể thích nghi với vấn đề thuế các-bon, đây cũng là thời gian để các chủ thể kinh doanh tìm phương pháp chuyển đổi xanh, tạo nền tảng để đầu tư cơ sở kỹ thuật, quản lý khí thải. Sau thời gian này, Việt Nam nên có lộ trình ban hành sắc thuế các-bon riêng biệt theo mô hình thứ hai và xem xét kết hợp với việc phát triển thị trường các-bon để đạt hiệu quả giảm khí thải tốt nhất. Vì theo nghiên cứu cho thấy, việc kết hợp giữa thuế các-bon và thị trường các-bon mang lại lợi ích giảm phát thải đáng kể, cụ thể thị trường các-bon hiện tại giúp kiểm soát 15% lượng phát thải các-bon toàn cầu. Trong khi đó thuế các-bon giúp giảm phát thải được khoảng 6%16.
Khi nghiên cứu áp dụng mô hình thứ hai, Việt Nam có thể tham khảo các mô hình thuế có điều kiện tương tự như Singapore. Điều này giúp tối ưu hóa thuế các-bon thu được vào các hoạt động chính nhất là giảm khí thải, giúp Việt Nam kiểm soát được lượng khí thải và có các kế hoạch bảo vệ môi trường phù hợp và kịp thời, tránh ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế và mất lợi thế xuất khẩu các ngành trọng yếu vào các thị trường lớn như EU, Mỹ. Hơn nửa, đây cũng là một xu thế tất yếu của thế giới trong kế hoạch tối ưu việc giảm khí thải, giúp Việt Nam có thể hòa hợp với hệ thống thuế của thế giới.
Như vậy, việc áp dụng công cụ thuế các-bon mới hoặc sửa chữa hệ thống thuế hiện hành đều có những thách thức đòi hỏi Việt Nam có sự cân nhắc, nghiên cứu, tham khảo từ nhiều quốc gia, cụ thể: (i) Việc bổ sung sắc thuế mới như thuế các-bon trong bối cảnh còn nhiều sự chồng chéo, thiếu thống nhất với hệ thống thuế chứa đựng nguy cơ ảnh hưởng đến mục tiêu kinh tế, kiểm soát lạm phát. (ii) Khi áp dụng thuế các-bon mà chưa đòi hỏi tránh nguy cơ đánh thuế hai lần, tăng gánh nặng cho các chủ thể liên quan. (iii) Các rào cản về kỹ thuật để định lượng khí thải các-bon là gánh nặng lớn cho một nước đang phát triển như Việt Nam. (iv) Thuế các-bon chỉ cũng nên được xem xét áp dụng cùng với các công cụ khác như thị trường mua bán phát thải, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ… để đạt hiệu quả áp dụng tốt nhất17.
Kết luận
Nhìn chung, nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách thuế các-bon. Mặc dù đây là loại thuế còn khá mới mẻ đối với một số quốc gia trên thế giới, tuy nhiên, với hiệu quả áp dụng đã cho thấy chính sách này là công cụ hữu hiệu góp phần vào bảo vệ môi trường, thúc đẩy chuyển đổi xanh. Đối với Việt Nam, thuế các-bon chưa được thể hiện rõ nét trong hệ thống thuế, dẫn đến việc chưa thực sự phát huy vai trò của mình vào vấn đề bảo vệ môi trường. Trong khuôn khổ nghiên cứu, tác giả dựa trên kinh nghiệm quốc tế cũng như tình hình kinh tế, xã hội của Việt Nam, đề xuất các giải pháp định hướng liên quan đến thuế các-bon nhằm hoàn thiện các chính sách bảo vệ môi trường trong thời gian tới.
1 Tax foundation, Carbon Tax, https://taxfoundation.org/taxedu/glossary/carbon-tax/, truy cập ngày 10/7/2025.
2 Laura D'andrea Tyson, “The Myriad Benefits of a Carbon Tax”, The New York Times, https://economix.blogs.nytimes.com/2013/06/28/the-myriad-benefits-of-a-carbon-tax/#more-164986, truy cập ngày 01/7/2025.
3 Nguyễn Thị Thu Hiền, “Thuế carbon - Công cụ kinh tế hiệu quả trong việc thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính”, https://tapchicongthuong.vn/thue-carbon-cong-cu-kinh-te-hieu-qua-trong-viec-thuc-day-giam-phat-thai-khi-nha-kinh-99069.htm, truy cập ngày 10/7/2025.
4 “Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng chính sách thuế bảo vệ môi trường”, http://new.kinhtetrunguong.vn/web/guest/nghien-cuu-trao-doi/kinh-nghiem-quoc-te-ve-ap-dung-chinh-sach-thue-bao-ve-moi-tr.html, truy cập ngày 10/7/2025
5 Thành Chung (2023), “Áp dụng thuế carbon rộng rãi và một số khuyến nghị khi vận dụng ở Việt Nam”, https://phaply.net.vn/ap-dung-thue-carbon-rong-rai-va-mot-so-khuyen-nghi-khi-van-dung-o-viet-nam-a255887.html, truy cập ngày 10/7/2025.
6 Tạp chí Công thương, “Cơ chế CBAM của EU và khuyến nghị giải pháp cho Việt Nam”, https://trungtamwto.vn/hiep-dinh-khac/24032-co-che-cbam-cua-eu-va-khuyen-nghi-giai-phap-cho-viet-nam, truy cập ngày 10/7/2025.
7 National Environment Agency, Carbon Tax, https://www.nea.gov.sg/our-services/climate-change-energy-efficiency/climate-change/carbon-tax, truy cập ngày 10/7/2025.
8 Chính sách độc lập: thuế các-bon được quy định như một loại thuế riêng biệt với các loại thuế khác trong hệ thống thuế quốc gia
Chính sách tích hợp: là việc tích hợp thuế các-bon vào các loại thuế đã tồn tại trước đó như thuế về bảo tồn năng lượng, giảm phát thải hoặc bảo vệ môi trường hiện và sẽ không cần phải áp dụng chính sách thuế các-bon riêng biệt
Chính sách tổng hợp là mô hình trong đó thuế các-bon được kết hợp với các cơ chế định giá các-bon khác như thị trường các-bon.
9 Phan Thị Thành Dương, Nguyễn Thị Thu Hiền (2022), “Thuế Carbon - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam”, https://danchuphapluat.vn/thue-carbon-kinh-nghiem-quoc-te-va-kien-nghi-hoan-thien-phap-luat-o-viet-nam-3412.html, truy cập ngày 10/7/2025.
10 Đỗ Diệu Hương, Bùi Nhật Huy, “Thuế Các-bon: Kinh nghiệm quốc tế và một số gợi mở cho Việt Nam", https://sti.vista.gov.vn/publication/download/450453-31a7aaa56cc801a39b32c63dc20e60ca.html, truy cập ngày 11/7/2025.
11 Đỗ Nam Thắng, “Phân tích so sánh thuế các-bon và thị trường các-bon”, Tạp chí Môi trường, số 7/2021.
12 Vũ Thị Loan, “Xu hướng áp dụng thuế carbon và bài học cho Việt Nam”, https://www.thiennhien.net/2023/04/20/xu-huong-ap-dung-thue-carbon-va-bai-hoc-cho-viet-nam/, truy cập ngày 11/7/2025.
13 Nguyễn Nam Trung, Nguyễn Hoàng Lan Anh, Mai Ngọc Minh, “Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam”, https://danchuphapluat.vn/stores/customer_file/dcpl/42025/4/10-nguyen-nam-trung-ky1-thang-4-2025-092110.pdf, truy cập ngày 11/7/2025.
14 Nhung Bùi, “Việt Nam có nên áp thuế carbon?”, https://baodautu.vn/viet-nam-co-nen-ap-thue-carbon-d227682.html?gidzl=rUMkLUCI-IFI_QjLv0xw8DVvhbdw2VGgpVod3QrSfNYThgC8hmlrS9lxe0JwMViZdFdzK3S3mMD1v17u9G, truy cập ngày 11/7/2024.
15 Nguyễn Thị Thu Hiền (2022), “Thuế carbon - Công cụ kinh tế hiệu quả trong việc thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính", https://tapchicongthuong.vn/thue-carbon-cong-cu-kinh-te-hieu-qua-trong-viec-thuc-day-giam-phat-thai-khi-nha-kinh-99069.htm, truy cập ngày 10/7/2025.
16 Đỗ Nam Thắng, “Phân tích so sánh thuế các-bon và thị trường các-bon”, Tạp chí Môi trường, số 7/2021.
17 Tạ Đức Bình, Lại Văn Mạnh, Nguyễn Thị Thanh Huyền, “Cơ sở khoa học, xu hướng thế giới và bối cảnh của Việt Nam về thuế các bon", Cơ sở khoa học, xu hướng thế giới và bối cảnh của Việt Nam về thuế các bon, truy cập ngày 11/7/2025.
Ảnh minh họa - Nguồn: Internet.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Tòa án nhân dân tối cao công bố các quyết định về công tác cán bộ
-
Tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Danh sách địa điểm đặt trụ sở chính của 34 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 355 Tòa án nhân dân khu vực
-
Vụ án nữ sinh giao gà bị sát hại – 6 bị cáo bị tử hình
-
Thời hạn giải quyết đơn đề nghị xem xét bản án dân sự đã có hiệu lực theo thủ tục giám đốc thẩm - đề xuất, kiến nghị
Bình luận