.jpg)
Một số điểm mới trong quy định về hình phạt và quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội và kiến nghị hoàn thiện
Bài viết phân tích những điểm mới về hình phạt và quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên năm 2024 trong sự so sánh với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về vấn đề này, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên phạm tội.
Đặt vấn đề
Với mục tiêu bảo đảm lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên (NCTN) phạm tội (NCTNPT), Luật Tư pháp người chưa thành niên (TPNCTN) năm 2024 đã có nhiều quy định mới có tính chất cải cách quan trọng so với quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích những điểm mới trong quy định về hình phạt và quyết định hình phạt đối với NCTNPT theo quy định của Luật TPNCTN năm 2024 trong sự so sánh với quy định của BLHS năm 2015. Từ đó, bài viết đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về vấn đề này.
1. Những điểm mới trong quy định về hình phạt và quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật Tư pháp người chưa thành niên năm 2024
Thứ nhất, về mục đích của hình phạt.
Theo khoản 1 Điều 12 Luật TPNCTN năm 2024, mục đích của hình phạt đối với NCTNPT có những điểm khác biệt so với mục đích của hình phạt đối với chủ thể phạm tội nói chung tại Điều 31 BLHS năm 2015 như sau:
(i) Mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt[1]: Nếu Điều 31 BLHS năm 2015 quy định mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt đối với chủ thể phạm tội nói chung là không chỉ nhằm trừng trị, mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới thì khoản 1 Điều 12 Luật TPNCTN năm 2024 chỉ quy định mục đích “giáo dục người chưa thành niên tôn trọng, tuân theo pháp luật và các chuẩn mực đạo đức, lối sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới” mà không quy định mục đích trừng trị[2].
(ii) Mục đích phòng ngừa chung của hình phạt: Nếu mục đích phòng ngừa chung quy định tại Điều 31 BLHS năm 2015 là “giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm” thì đối với NCTNPT, mục đích phòng ngừa chung của hình phạt chỉ là “có tác dụng phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm” mà không có mục đích “giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật”. Điều này cho thấy rõ việc đề cao mục đích giáo dục, cải tạo của Luật TPNCTN. Bởi lẽ, khi Điều 31 BLHS năm 2015 quy định mục đích giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, tức là, Nhà nước đã mong muốn sử dụng tác động của hình phạt đối với những người có tâm lý “không vững vàng” trong xã hội, để họ không thực hiện hành vi phạm tội. Để đạt được mục đích này, hình phạt áp dụng đối với chủ thể phạm tội thường nghiêm khắc hơn.
Thứ hai, về việc ưu tiên áp dụng các biện pháp xử lý khác so với hình phạt.
BLHS năm 2015 quy định biện pháp miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) tại khoản 2 Điều 91 và đi kèm theo đó là việc áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục (GSGD)[3] và giáo dục tại trường giáo dưỡng (biện pháp tư pháp)[4]. Đây là các biện pháp xử lý TNHS khác nhau và được áp dụng riêng đối với NCTNPT thì trong Luật TPNCTN, giáo dục tại trường giáo dưỡng và các biện pháp GSGD này đều được quy định chung là biện pháp xử lý chuyển hướng[5] (XLCH). Do có sự thay đổi về bản chất của các biện pháp GSGD và giáo dục tại trường giáo dưỡng, cũng như việc quy định thêm nhiều biện pháp XLCH khác, nên việc ưu tiên áp dụng các biện pháp xử lý đối với NCTNPT cũng có sự thay đổi tương ứng. Cụ thể, khoản 4 Điều 91 BLHS năm 2015 quy định khi xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án cần ưu tiên xem xét trước hết việc miễn TNHS và áp dụng một trong các biện pháp GSGD và biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. Khi người dưới 18 tuổi phạm tội không đủ điều kiện để được áp dụng các biện pháp này, thì Tòa án mới xem xét đến việc áp dụng hình phạt[6]. Tiếp tục kế thừa quy định này, khoản 2 Điều 12 Luật TPNCTN năm 2024 quy định: “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội nếu xét thấy việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa”.
Thứ ba, về thứ tự áp dụng các loại hình phạt.
Nếu Điều 91 BLHS năm 2015 chưa quy định rõ về thứ tự ưu tiên áp dụng các loại hình phạt đối với NCTNPT[7], thì khoản 2 Điều 12 Luật TPNCTN năm 2024 quy định: “Trường hợp phải áp dụng hình phạt thì ưu tiên áp dụng hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo”. Đồng thời, tương tự như Điều 91 BLHS năm 2015, khoản 4 Điều 12 Luật TPNCTN năm 2024 quy định về áp dụng hình phạt tù có thời hạn: “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên khi xét thấy các hình phạt và biện pháp khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa”.
Thứ tư, về các hình phạt được áp dụng đối với NCTNPT.
Tương tự như Điều 98 BLHS năm 2015, Điều 115 Luật TPNCTN năm 2024 cũng quy định NCTNPT chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm, gồm: cảnh cáo, phạt tiền, CTKGG và tù có thời hạn. Bên cạnh đó, Luật TPNCTN còn có quy định mới về điều kiện và giới hạn áp dụng của hình phạt cảnh cáo, phạt tiền và tù có thời hạn theo hướng có lợi hơn. Cụ thể:
Một là, hình phạt cảnh cáo: Nếu BLHS năm 2015 không có quy định riêng về hình phạt cảnh cáo đối với NCTNPT[8], thì Điều 116 Luật TPNCTN đã có quy định về vấn đề này. Theo đó, ngoài điều kiện “chưa đến mức miễn hình phạt” như Điều 34 BLHS năm 2015, Luật TPNCTPT năm 2024 còn có quy định có lợi hơn BLHS năm 2015, gồm:
- Mở rộng điều kiện về loại tội phạm: Điều 115 Luật TPNCTN năm 2024 quy định ngoài loại tội phạm ít nghiêm trọng, cảnh cáo còn được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng với lỗi vô ý.
- Điều kiện về tình tiết giảm nhẹ: Nếu Điều 34 BLHS năm 2015 quy định NCTNPT phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015, thì Điều 116 Luật TPNCTN năm 2024 quy định NCTNPT chỉ cần “có tình tiết giảm nhẹ”, tức là, chỉ bắt buộc có một tình tiết giảm nhẹ.
Hai là, hình phạt tiền:
- Mở rộng đối tượng NCTNPT được áp dụng hình phạt tiền: Nếu Điều 99 BLHS năm 2015 quy định phạt tiền chỉ được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì khoản 1 Điều 117 Luật TPNCTN năm 2024 còn mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu họ có thu nhập hoặc có tài sản riêng.
- Mức tiền phạt đối với NCTNPT: Tương tự Điều 99 BLHS năm 2015, khoản 2 Điều 117 Luật TPNCTN năm 2024 quy định mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội là không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật của BLHS quy định. Đồng thời, Luật TPNCTN còn quy định mức tiền phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: “…không quá một phần ba mức tiền phạt mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định”.
Ba là, hình phạt tù có thời hạn: Điều 119 Luật TPNCTN năm 2024 quy định ngoài mức phạt tù có thời hạn đối với NCTNPT được phân hóa theo hai nhóm tuổi khác nhau là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi như Điều 101 BLHS năm 2015[9], thì còn phân hóa mức phạt tù có thời hạn theo tội phạm. Cụ thể[10]:
- Trường hợp NCTN thực hiện 5 tội phạm gồm: tội giết người, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và tội sản xuất trái phép chất ma túy, thì mức phạt tù vẫn được áp dụng như quy định của Điều 101 BLHS năm 2015.
- Trường hợp NCTN thực hiện các tội phạm khác, trừ 5 tội phạm nói trên, thì mức phạt tù có thời hạn được quy định theo hướng rút ngắn hơn: (i) đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 15 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần năm mức phạt tù mà điều luật quy định; (ii) đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 09 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá hai phần năm mức phạt tù mà điều luật quy định.
Thứ năm, về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội.
Khoản 1 Điều 121 Luật TPNCTN năm 2024 cũng quy định về giới hạn tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, khi các tội mà người dưới 18 tuổi thực hiện đều nằm trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, hoặc đều nằm trong độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi như khoản 1 Điều 103 BLHS năm 2015[11].
Tuy nhiên, nếu khoản 2 và khoản 3 Điều 103 BLHS năm 2015 quy định theo hướng chia cụ thể thành các độ tuổi khác nhau và dựa vào “mức hình phạt” nặng nhẹ mà Tòa án đã tuyên để xác định mức hình phạt tối đa sau khi tổng hợp, thì khoản 2 và khoản 3 Điều 121 Luật TPNCTN năm 2024 chỉ quy định việc tổng hợp hình phạt theo các độ tuổi và không dựa vào “mức hình phạt” nặng nhẹ mà Tòa án tuyên. Cụ thể:
- Khoản 2 Điều 121 Luật TPNCTN năm 2024 quy định: “Đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi, việc tổng hợp hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều này”, tức tối đa là 18 năm tù. Quy định này có phần bất lợi hơn so với khoản 2 Điều 103 BLHS năm 2015 vì theo điểm a khoản 2 Điều 103 BLHS năm 2015, tùy vào “mức hình phạt” nặng nhẹ mà Tòa án tuyên, mức hình phạt tối đa sau khi tổng hợp có thể là 12 năm tù hoặc 18 năm tù, tùy từng trường hợp cụ thể, trong khi theo quy định tại khoản 2 Điều 121 Luật TPNCTN năm 2024 thì mức hình phạt tối đa sau khi tổng hợp là 18 năm tù.
- Khoản 3 Điều 121 Luật TPNCTN năm 2024 quy định: “Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, việc tổng hợp hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội”. Quy định tại khoản 3 Điều 121 có phần bất lợi hơn so với khoản 3 Điều 103 BLHS năm 2015 vì theo điểm a khoản 3 Điều 103 BLHS năm 2015, mức hình phạt tối đa sau khi tổng hợp có thể không vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 103 BLHS năm 2015, trong khi khoản 3 Điều 121 Luật TPNCTN năm 2024 quy định mức phạt sau khi tổng hợp như đối với người đủ 18 tuổi trở lên.
Thứ sáu, về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.
Vì Điều 121 Luật TPNCTN năm 2024 quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội có thay đổi về mức hình phạt tối đa sau khi tổng hợp, nên quy định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với NCTNPT tại Điều 122 cũng có sự thay đổi tương ứng về mức tối đa của hình phạt sau khi tổng hợp.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, về việc ưu tiên áp dụng các biện pháp xử lý khác so với hình phạt.
Quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật TPNCTN năm 2024 về việc ưu tiên áp dụng các biện pháp xử lý khác so với hình phạt vẫn còn có một số hạn chế cần tiếp tục được hoàn thiện như sau:
Một là, về việc áp dụng biện pháp miễn TNHS đối với NCTNPT.
So với các biện pháp XLCH, thì miễn TNHS là biện pháp khoan hồng, nhân đạo hơn. Khi NCTNPT được áp dụng biện pháp miễn TNHS, thì TNHS của họ chấm dứt. Trong khi đó, nếu NCTNPT được áp dụng biện pháp XLCH, thì họ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 Luật TPNCTN năm 2024 và các nghĩa vụ khác tùy theo các biện pháp XLCH. Vì miễn TNHS có nội dung khoan hồng hơn so với các biện pháp XLCH, nên Điều 37 Luật TPNCTN năm 2024 đã quy định rõ về việc ưu tiên áp dụng miễn TNHS so với các biện pháp XLCH: “Người chưa thành niên phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự thì có thể được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng…”. Tuy nhiên, trong nguyên tắc chung về áp dụng hình phạt tại Điều 12 lại không thể hiện rõ thứ tự ưu tiên áp dụng này. Do đó, tác giả kiến nghị khoản 2 Điều 12 Luật TPNCTN năm 2024 cần quy định rõ việc ưu tiên áp dụng biện pháp miễn TNHS so với các biện pháp XLCH theo đúng tinh thần của Điều 37.
Hai là, về việc áp dụng biện pháp miễn hình phạt đối với NCTNPT.
Ngoài miễn TNHS, biện pháp XLCH, hình phạt thì trong quá trình giải quyết TNHS, NCTNPT còn có thể được áp dụng biện pháp miễn hình phạt tại Điều 59 BLHS năm 2015. Để có thể được miễn hình phạt, bên cạnh các điều kiện khác quy định tại Điều 59 BLHS năm 2015 thì người phạm tội cũng đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn TNHS. Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn thế nào là người phạm tội chưa đến mức được miễn TNHS. Tuy nhiên, có thể hiểu, chưa đến mức được miễn TNHS có thể là chưa đủ mức độ giảm nhẹ để miễn TNHS, hoặc không nằm trong các trường hợp được miễn TNHS theo quy định của BLHS năm 2015[12]. Hơn nữa, theo khoản 2 Điều 69 BLHS năm 2015, người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.
Vì thế, tác giả kiến nghị, khoản 2 Điều 12 Luật TPNCTN năm 2024 cần sửa đổi, bổ sung như sau: “2. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự, việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và miễn hình phạt không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa. Trường hợp phải áp dụng hình phạt thì ưu tiên áp dụng hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo”.
Thứ hai, về việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với NCTNPT.
Khoản 4 Điều 12 Luật TPNCTN năm 2024 quy định Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với NCTNPT “khi xét thấy các hình phạt và biện pháp khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa”. Như vậy, “các biện pháp khác” này là biện pháp nào. Theo khoản 2 Điều 12 Luật TPNCTN năm 2024, có thể hiểu “hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo” là một trong “các biện pháp khác” này. Tuy nhiên, liệu rằng, ngoài hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì còn biện pháp nào khác nữa hay không. Vì trong quá trình giải quyết TNHS đối với NCTNPT, ngoài miễn TNHS, các biện pháp XLCH, các hình phạt và án treo thì chỉ còn có biện pháp miễn hình phạt. Tuy nhiên, biện pháp miễn hình phạt đã được tác giả kiến nghị ở trên. Do đó, để bảo đảm áp dụng đúng tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật TPNCTN năm 2024, tác giả kiến nghị khoản 4 Điều 12 Luật TPNCTN năm 2024 cần quy định rõ như sau: “4. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội khi xét thấy các hình phạt khác và hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo không có tác dụng răn đe, phòng ngừa”[13].
Thứ ba, về các hình phạt được áp dụng đối với NCTNPT.
Một là, đối với hình phạt cảnh cáo: Tương tự như BLHS năm 2015, tác giả kiến nghị cần ban hành văn bản hướng dẫn điều kiện “chưa đến mức được miễn hình phạt” quy định tại Điều 116 Luật TPNCTN năm 2024.
Hai là, về mức tiền phạt tối thiểu đối với NCTNPT: Tương tự như Điều 99 BLHS năm 2015, Điều 117 Luật TPNCTN năm 2024 chỉ khống chế mức phạt tiền tối đa đối với NCTNPT, mà không quy định mức tiền phạt tối thiểu. Do đó, để việc quyết định mức tiền phạt tối thiểu được thống nhất, cũng như để bảo đảm mức tiền phạt tối thiểu tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện; bảo đảm phân hóa được mức tiền phạt với các trường hợp phạm tội khác như chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, trường hợp điều luật có nhiều khung hình phạt quy định hình phạt tiền…, tác giả kiến nghị, Điều 117 Luật TPNCTN năm 2024 cần quy định giới hạn mức tiền phạt tối thiểu đối với NCTNPT. Theo đó, mức tiền phạt tối thiểu đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không quá một phần hai mức tối thiểu của khung hình phạt tương ứng, nhưng không được dưới 01 triệu đồng; mức tiền phạt tối thiểu đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không quá một phần ba mức tối thiểu của khung hình phạt tương ứng, nhưng không được dưới 01 triệu đồng.
Với kiến nghị này, khoản 2 và khoản 3 Điều 117 Luật TPNCTN năm 2024 cần được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt của khung hình phạt được áp dụng tương ứng mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định.
3. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội không quá một phần ba mức tiền phạt của khung hình phạt được áp dụng tương ứng mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định”.
Ba là, đối với hình phạt CTKGG.
- Về mức tối thiểu của hình phạt CTKGG: Tương tự như hình phạt tiền, Điều 118 Luật TPNCTN năm 2024 cũng không quy định mức tối thiểu của hình phạt CTKGG. Do đó, tác giả kiến nghị khoản 3 Điều 118 Luật TPNCTN năm 2024 cần được sửa đổi, bổ sung như sau: “Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn của khung hình phạt được áp dụng tương ứng mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định”[14].
- Về việc áp dụng hình phạt CTKGG đối với NCTNPT rất nghiêm trọng: Trong Phần thứ hai - Các tội phạm của BLHS năm 2015 không có khung hình phạt nào quy định hình phạt CTKGG đối với loại tội phạm rất nghiêm trọng. Do đó, để hình phạt CTKGG được áp dụng đối với NCTNPT rất nghiêm trọng theo khoản 1 Điều 118 Luật TPNCTN năm 2024, tác giả kiến nghị, cần ban hành văn bản hướng dẫn rõ trường hợp nào thì NCTNPT được áp dụng hình phạt CTKGG, nếu tội phạm họ thực hiện là loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Bốn là, về mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn đối với NCTNPT: Tương tự như phạt tiền và CTKGG, Điều 119 Luật TPNCTN năm 2024 chưa quy định rõ mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn. Do đó, tác giả kiến nghị, Điều 119 Luật TPNCTN năm 2024 cần được sửa đổi theo hướng quy định rõ mức phạt tù có thời hạn đối với NCTNPT cũng được giới hạn trong phạm vi khung hình phạt tương ứng như đối với phạt tiền và CTKGG, nhưng không được dưới 03 tháng tù.
Thứ tư, về việc áp dụng hình phạt trục xuất đối với NCTNPT.
Thứ năm, về việc quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với NCTNPT.
Tương tự như BLHS năm 2015, Luật TPNCTN không có quy định riêng về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với NCTNPT. Do đó, tác giả kiến nghị, Luật TPNCTN cần bổ sung quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với NCTNPT trên cơ sở tinh thần hướng dẫn tại mục 11.1 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự. Cụ thể, để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với NCTNPT, cần: (i) xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội như đối với trường hợp người phạm tội là người đủ 18 tuổi trở lên theo quy định tại Điều 54 BLHS năm 2015;(ii) trên cơ sở kết quả trên, áp dụng tiếp quy định tại Điều 117, Điều 118 và Điều 119 Luật TPNCTN năm 2024 tùy theo từng nhóm tuổi khác nhau.
Kết luận
Những quy định mới về hình phạt và quyết định hình phạt trong Luật TPNCTN không chỉ phản ánh sự thay đổi quan trọng trong tư duy lập pháp về chính sách xử lý hình sự đối với NCTNPT, mà còn phù hợp với đặc thù tâm sinh lý lứa tuổi của NCTNPT, nguyên tắc nhân đạo và phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, để các quy định này thực sự phát huy hiệu quả, thì việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất của NCTNPT luôn là yêu cầu mang tính cấp thiết.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
2. Luật Tư pháp người chưa thành niên năm 2024.
3. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
4. Bộ Tư pháp, Thông tin khoa học pháp lý, số 9/1994.
5. PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa - TS. Lê Huỳnh Tấn Duy (đồng chủ biên), Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên, Nxb. Công an nhân dân, 2022.
6. Mai Thị Thủy, Xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP.HCM, 2023.
7. Trường Đại học Luật TP.HCM, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần Chung (Tái bản lần thứ nhất, có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2019.
[1] Trường Đại học Luật TP.HCM, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần Chung (Tái bản lần thứ nhất, có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2019, tr.263.
[2] Hiện nay, trong khoa học pháp lý hình sự vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh mục đích trừng trị của hình phạt. Xem: Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.25; Bộ Tư pháp, Thông tin khoa học pháp lý, số 9/1994, tr.112.
[3] Khoản 2 Điều 91, Điều 92 - Điều 95 BLHS năm 2015.
[4] Điều 96, Điều 97 BLHS năm 2015.
[5] Khoản 8 Điều 3 Luật TPNCTN năm 2024.
[6] Khoản 4 Điều 91 BLHS năm 2015.
[7] Khoản 6 Điều 91 BLHS năm 2015.
[8] Điều 34 BLHS năm 2015.
[9] Điều 101 BLHS năm 2015.
[10] Điều 119 Luật TPNCTN năm 2024, Điều 101 BLHS năm 2015.
[11] Khoản 1 Điều 121 Luật TPNCTN năm 2024, khoản 1 Điều 103 BLHS năm 2015.
[12] Trường Đại học Luật TP.HCM, tlđd (1), tr.372.
[13] Giáo dục tại trường giáo dưỡng là biện pháp tước tự do của NCTNPT, cho nên biện pháp này không đáp ứng được các điều kiện của biện pháp XLCH theo chuẩn mực quốc tế. Do đó, tác giả cho rằng, không nên quy định giáo dục tại trường giáo dưỡng là biện pháp XLCH như quy định của Luật TPNCTN. Xem: Mai Thị Thủy, Xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP.HCM, 2023.
Tác giả cũng đồng tình với quan điểm cho rằng, biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, nhưng lại nghiêm khắc hơn so với hình phạt tù có thời hạn. Xem: Nguyễn Thị Phương Hoa, Biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng trong quy định của Bộ luật Hình sự, 2022, tr.152-169 trong PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa, TS. Lê Huỳnh Tấn Duy (đồng chủ biên), Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên, Nxb. Công an nhân dân, 2022.
[14] Tương tự như phạt tiền, mức phạt CTKGG tối thiểu đối với NCTNPT vẫn là 6 tháng.
Ảnh minh họa - Nguồn: Internet.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Việt Nam: Giới thiệu Phó giám đốc Học viện Ngoại giao ứng cử vào vị trí thẩm phán Tòa án Luật biển quốc tế
-
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm về “Thực hành tiết kiệm”
-
Đại hội Chi bộ các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc Đảng ủy Tòa án nhân dân tối cao lần thứ Nhất, nhiệm kỳ 2025–2027
-
Chi bộ Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học tổ chức thành công Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025 - 2027
-
Nguyên nhân, điều kiện phạm tội của người chưa thành niên và giải pháp phòng ngừa
Bình luận