Một số vấn đề về áp dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam hiện nay

Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán TANDTC lựa chọn và được Chánh án TANDTC công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, viện dẫn và áp dụng trong xét xử. Việc áp dụng, viện dẫn án lệ trong quá trình giải quyết các vụ việc là một bước tiến mới trong tiến trình cải cách tư pháp tại nước ta, góp phần bổ khuyết cho hệ thống các quy phạm pháp luật hiện nay.

Từ năm 2016 đến nay, TANDTC đã tổ chức rà soát các bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, đề xuất lựa chọn các bản án, quyết định là nguồn để phát triển thành án lệ; thực hiện các thủ tục theo quy trình lựa chọn án lệ như: tổ chức hội thảo lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học; tổ chức họp Hội đồng tư vấn án lệ cho ý kiến đối với các bản án, quyết định đề xuất lựa chọn phát triển thành án lệ và các dự thảo án lệ; tổ chức họp Hội đồng Thẩm phán TANDTC thông qua án lệ; triển khai việc công bố án lệ để các Tòa án áp dụng thống nhất trong toàn quốc. Tính đến ngày 30/9/2024, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành được tổng số 72 án lệ, trong đó có 17 án lệ về hình sự, 35 án lệ về dân sự, 05 án lệ về hôn nhân và gia đình, 09 án lệ về kinh doanh thương mại, 04 án lệ về hành chính và 02 án lệ về lao động. Trên cơ sở các án lệ đã được công bố, đến nay TANDTC đã tổ chức nghiên cứu, mời một số Thẩm phán (trong đó có một số Lãnh đạo TANDTC, Thẩm phán TANDTC), chuyên gia giàu kinh nghiệm để viết bình luận về các án lệ đã được công bố, xây dựng nội dung và xuất bản được 05 cuốn sách “Án lệ và Bình luận” Quyển I, II, III, IV, V (Bình luận từ án lệ số 01 đến 70). Việc phát hành các cuốn “Án lệ và Bình luận” nêu trên của TANDTC đã tạo thuận lợi cho các Thẩm phán, người giữ chức danh tư pháp khác và các nhà nghiên cứu, tìm hiểu, áp dụng và viện dẫn án lệ trong quá trình thực hiện công việc của mình; giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm tới hoạt động của Tòa án có thể dễ dàng tiếp cận với các án lệ đã được ban hành; tạo nguồn tham khảo cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học liên quan đến án lệ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Hiện nay, việc áp dụng, viện dẫn án lệ trong công tác xét xử ngày càng được các Tòa án quan tâm và coi trọng trong công tác xét xử của Tòa án, góp phần quan trọng trong việc tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trong công tác xét xử của các Tòa án, khẳng định vai trò quan trọng và vị thế của án lệ trong công tác xét xử của các Tòa án hiện nay. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay thì án lệ không chỉ được áp dụng trong công tác xét xử của các Tòa án, mà còn được các tổ chức Trọng tài thương mại áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài. Liên quan đến vấn đề Trọng tài thương mại có được áp dụng, viện dẫn án lệ trong việc giải quyết các tranh chấp bằng phương thức trọng tài hay không thì hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi sâu phân tích về quy định pháp luật; thực tiễn công tác áp dụng, viện dẫn án lệ trong công tác xét xử và trong công tác giải quyết tranh chấp bằng trọng tài; trên cơ sở đó phân tích và đưa ra một số bàn luận về vấn đề này.

1. Quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng, viện dẫn án lệ tại Tòa án

Hiện nay, các văn bản quy định về việc lựa chọn, công bố, viện dẫn và áp dụng án lệ có thể kể đến các văn bản sau:

- Luật Tổ chức TAND năm 2014 là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC (Hội đồng Thẩm phán TANDTC) là chủ thể có quyền Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”[1]. Quy định này sau đó tiếp tục được kế thừa và quy định cụ thể hơn trong Luật Tổ chức TAND năm 2024[2] (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025).

- Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ (hiện nay đã được thay thế bằng Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ).

- BLDS năm 2015 quy định: “Trong trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng” (khoản 2 Điều 6).

- BLTTDS năm 2015 quy định: “Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố” (khoản 3 Điều 45).  

- Luật Tố tụng hành chính năm 2015 cũng có quy định về việc áp dụng, viện dẫn án lệ trong xét xử (tại khoản 3 Điều 191, điểm b khoản 2 Điều 194, khoản 4 Điều 242).

Ngoài các văn bản nêu trên, liên quan đến việc viện dẫn, áp dụng án lệ trong công tác xét xử, từ năm 2015 đến nay, TANDTC đã ban hành nhiều văn bản khác nhau liên quan đến vấn đề này. Có thể kể đến các văn bản sau:

- Ngày 30/5/2016, Chánh án TANDTC đã ban hành Chỉ thị số 04/2016/TATC-CA về việc tăng cường công tác phát triển và công bố án lệ, áp dụng án lệ trong xét xử.

- Ngày 04/7/2017, TANDTC đã ban hành Công văn số 144/TATC-PC hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/3/2017.

- Ngày 11/7/2017, TANDTC đã ban hành Công văn số 146/TANDTC-PC về viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử (sau đây gọi tắt là Công văn 146). Nội dung công văn này nêu rõ:

“Việc viện dẫn, áp dụng hoặc không áp dụng án lệ  khi xét xử, giải quyết những vụ việc cụ thể phải được thực hiện theo đúng hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28-10-2015 về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Khi xét xử, giải quyết những vụ việc đã có án lệ thì Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu án lệ đó để quyết định việc viện dẫn, áp dụng hoặc không áp dụng. Trường hợp áp dụng án lệ thì số án lệ, số bản án, quyết định của Tòa án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ (nội dung khái quát của án lệ) phải được viện dẫn, phân tích trong phần “Nhận định của Tòa án”; tùy từng trường hợp cụ thể có thể trích dẫn nguyên văn những nội dung hạt nhân của án lệ để làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết các vụ việc tương tự. 

Ví dụ: Theo Án lệ số 07/2016/AL về công nhận hợp đồng mua bán nhà được xác lập trước ngày 01-7-1991 được lựa chọn từ Quyết định giám đốc thẩm số 126/2013/DS-GĐT ngày 23-9-2013 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17-10-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì: “Hợp đồng mua bán nhà được lập thành văn bản trước ngày 01-7-1991, có chữ ký của bên bán, ghi rõ bên bán đã nhận đủ tiền, bên mua tuy chưa ký tên trên hợp đồng nhưng là người giữ hợp đồng và đã quản lý, sử dụng nhà ở ổn định trong thời gian dài mà bên bán không có tranh chấp đòi tiền mua nhà. Trường hợp này, hợp đồng có giá trị xác định bên mua đã trả đủ tiền cho bên bán và ý chí của bên mua đồng ý với hợp đồng mua bán nhà đó, hợp đồng mua bán nhà được công nhận”. Hội đồng xét xử xét thấy tính chất, các tình tiết, sự kiện pháp lý trong vụ án này tương tự như các tình tiết, sự kiện pháp lý trong án lệ. Vì vậy, theo quy định tại … (nêu rõ các điều luật có liên quan) và theo Án lệ số 07/2016/AL, có đủ cơ sở để công nhận hợp đồng mua bán nhà giữa ông A và ông B”.

-  Chỉ thị số 01/2023/CT-CA ngày 03/01/2023 của Chánh án TANDTC về việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác Tòa án năm 2023.

Các văn bản nêu trên được ban hành với mục đích tạo cơ sở pháp lý, hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục trong công tác lựa chọn, công bố án lệ của TANDTC và trong công tác viện dẫn, áp dụng án lệ của các Tòa án. Để tăng cường công tác phát triển án lệ trong TAND, khuyến khích các Tòa án, Thẩm phán và công chức trong hệ thống Tòa án nghiên cứu và đề xuất các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để phát triển thành án lệ, lãnh đạo TANDTC cũng đã đưa nội dung đề xuất án lệ làm chỉ tiêu thi đua hàng năm đối với các Tòa án, giao chỉ tiêu đề xuất án lệ hàng năm cho một số đơn vị, TAND. Cụ thể, tại Chỉ thị số 01/2023/CT-CA ngày 03/01/2023 của về việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác Tòa án năm 2023, Chánh án TANDTC đã giao chỉ tiêu đề xuất án lệ hàng năm cho một số đơn vị, TAND như sau: Đề xuất bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là nguồn để phát triển thành án lệ ít nhất 01 bản án, quyết định đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự quân khu và tương đương; 03 bản án, quyết định đối với Tòa án nhân dân cấp cao, Vụ Giám đốc kiểm tra thuộc Tòa án nhân dân tối cao.

Qua theo dõi thực tiễn công tác xét xử của các Tòa án trong thời gian qua cho thấy đã có nhiều vụ việc mà trong quá trình giải quyết, các Thẩm phán đã xác định được có tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự như tình tiết, sự kiện pháp lý trong án lệ nên các Thẩm phán đã áp dụng và viện dẫn án lệ để giải quyết vụ việc. Các bản án, quyết định có áp dụng và viện dẫn án lệ đã nêu được số án lệ, số bản án, quyết định có chứa đựng án lệ; phân tích, làm rõ tình huống pháp lý của vụ việc đang được giải quyết, tình huống pháp lý và giải pháp pháp lý trong án lệ làm căn cứ để đưa ra quyết định áp dụng và viện dẫn án lệ. Theo số liệu thống kê của TANDTC thì sau hơn 08 năm kể từ ngày 06/4/2016 (ngày Chánh án TANDTC công bố án lệ số 01/2016/AL) đến ngày 30/9/2024, đã có tổng số 1860 bản án, quyết định của các Tòa án đã áp dụng, viện dẫn án lệ[3].

2. Thực tiễn và cơ sở pháp lý để áp dụng án lệ trong việc giải quyết các tranh chấp bằng Trọng tài

2.1. Thực tiễn áp dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài

Ngày nay, với sự biến động không ngừng của các quan hệ xã hội, quy phạm pháp luật thành văn khó có thể dự liệu và điều chỉnh hết được tất cả các tình huống pháp lý mới phát sinh trong thực tiễn đời sống xã hội. Trong trường hợp này, án lệ được sử dụng như là một phương tiện hữu hiệu để bổ khuyết cho hệ thống các quy phạm pháp luật hiện nay. Nói cách khác, những vấn đề mà các văn bản pháp luật không điều chỉnh hoặc có điều chỉnh nhưng không rõ ràng, còn nhiều cách hiểu và áp dụng không thống nhất thì cơ quan tài phán (trong đó có Trọng tài thương mại) cũng có quyền nghiên cứu, áp dụng án lệ trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Cho đến thời điểm hiện nay, TANDTC đã công bố 72 án lệ, trong đó có nhiều án lệ về dân sự theo nghĩa rộng đã góp phần tháo gỡ nhiều vấn đề pháp lý khó khăn mà pháp luật chưa quy định hoặc có quy định nhưng còn nhiều cách hiểu khác nhau, việc áp dụng không thống nhất… để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật cho các Tòa án trong quá trình xem xét, giải quyết các vụ việc.

Trọng tài thương mại với vai trò là cơ quan giải quyết các tranh chấp tư linh hoạt, đề cao tự do ý chí của các bên trong tranh chấp và cũng là một thiết chế tài phán mà ngày nay càng có nhiều các vụ việc tranh chấp được các bên lựa chọn làm cơ quan để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, vấn đề Trọng tài thương mại có được áp dụng án lệ trong quá trình giải quyết các tranh chấp hay không đang là một vấn đề được quan tâm và có nhiều ý kiến khác nhau, đặc biệt là khi án lệ chưa được công nhận như một nguồn pháp luật chính thức. Pháp luật Việt Nam hiện nay cũng không có quy định nào về việc các Trọng tài viên phải nghiên cứu, áp dụng án lệ trong quá trình giải quyết các tranh chấp, nhưng Trọng tài viên có thể sử dụng án lệ án lệ như một nguồn tham khảo để giúp củng cố lập luận và quyết định của mình, đặc biệt trong các vụ tranh chấp phức tạp có các vấn đề pháp lý tương tự. Do đó, không riêng chỉ có Tòa án được nghiên cứu và áp dụng án lệ trong giải quyết các vụ việc, mà việc nghiên cứu và áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp bằng Trọng tài cũng cần thiết được đặt ra nhằm giúp giải quyết tranh chấp được chính xác, nhanh chóng và dễ dàng hơn, góp phần tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các tranh chấp của các tổ chức trọng tài.

Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 44 Trung tâm trọng tài thương mại trên cả nước, tập trung chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh (23 trung tâm) và Hà Nội (12 trung tâm)[4]. Theo số liệu từ Bộ Tư pháp, tính đến tháng 11/2024, cả nước có khoảng 700 Trọng tài viên là người Việt Nam và nước ngoài. Con số này thậm chí chưa bằng số lượng Trọng tài viên của riêng Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) với hơn 800 người từ nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ[5]. Còn theo số liệu của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) - trung tâm lớn và lâu đời nhất tại Việt Nam - số vụ tranh chấp được thụ lý đã tăng từ 6 vụ tranh chấp (năm 1993) đến 292 vụ tranh chấp (năm 2022)[6]. Từ năm 2010, số vụ tranh chấp VIAC tiếp nhận tăng hầu như liên tục (chỉ có ba lần giảm, vào các giai đoạn 2011-2012, 2016-2017 và 2019-2020), cho thấy nhu cầu giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài ngày càng lớn[7].

Theo tác giả tìm hiểu thì hiện tại chưa có cơ quan nào thống kê về việc hiện nay đã có bao nhiêu phán quyết trọng tài áp dụng án lệ, nhưng thực tế số lượng các tranh chấp giải quyết tại Trọng tài vẫn chủ yếu là tranh chấp kinh doanh thương mại. Theo thống kê về lĩnh vực giải quyết tranh chấp năm 2022 tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) rất đa dạng, trong đó mua bán hàng hóa tiếp tục là lĩnh vực có số vụ tranh chấp thụ lý và giải quyết cao nhất tại VIAC với tỷ lệ 37,5% tổng số vụ. Tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực Xây dựng và Tài chính - Ngân hàng đứng thứ hai và ba với tỷ lệ số vụ lần lượt là 17,1% và 10,4% tổng số vụ. Ngoài ra, các vụ tranh chấp được tiếp nhận và giải quyết ở VIAC còn phát sinh ở nhiều các lĩnh vực khác như kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, mua bán & sáp nhập, dịch vụ kiểm toán, sở hữu trí tuệ v.v[8]. Ngoài ra, trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp bằng Trọng tài, án lệ cũng đã được các tổ chức trọng tài thương mại nghiên cứu, áp dụng trong quá trình giải quyết các tranh chấp, đặc biệt là các án lệ về kinh doanh thương mại, trong đó được áp dụng nhiều nhất là Án lệ số 08/2016/AL về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm và Án lệ số 09/2016/AL về xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường và việc trả lãi trên số tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại9.

2.1. Cơ sở pháp lý để áp dụng án lệ trong việc giải quyết các tranh chấp bằng Trọng tài

Theo các văn bản đã viện dẫn nêu trên thì hiện nay chỉ có các văn bản hướng dẫn của TANDTC về việc viện dẫn, áp dụng án lệ trong công tác xét xử của Tòa án. Như vậy, vấn đề đặt ra là Trọng tài thương mại có được áp dụng án lệ trong việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức Trọng tài hay không? Liên quan đến vấn đề áp dụng án lệ trong tố tụng Trọng tài hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể:

Thứ nhất, có quan điểm cho rằng cơ sở pháp lý để Trọng tài áp dụng án lệ giải quyết nội dung tranh chấp là khiên cưỡng nếu không muốn nói là không có căn cứ để áp dụng[10]. Quan điểm này là dựa trên các quy định của Nghị quyết số 04/2019/NQ- HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Cụ thể, tại Điều 1 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP quy định: Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử và khoản 2 Điều 8 Nghị quyết này nêu rõ: “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau...”. Các quy định này cũng như toàn bộ Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP chỉ đề cập chủ thể áp dụng án lệ là Tòa án và không có quy định nào dẫn chiếu đến việc Trọng tài thương mại được áp dụng án lệ. Hơn nữa, theo Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM) hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này cũng không có quy định nào về việc cơ quan trọng tài có thể áp dụng án lệ để giải quyết tranh chấp.

Thứ hai, có quan điểm cho rằng có cơ sở pháp lý để Trọng tài áp dụng án lệ giải quyết nội dung tranh chấp[11]. Quan điểm này dựa trên quy định tại Điều 6 BLDS năm 2015 về áp dụng tương tự pháp luật: “1. Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. 2. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng. Như vậy, theo quy định trên thì án lệ được áp dụng khi quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng” và “không thể áp dụng tương tự pháp luật. Ngoài ra, khoản 2 Điều 14 BLDS năm 2015 quy định về việc bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền: Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng. Do đó, quy định này đương nhiên được áp dụng cho Tòa án cũng như không loại trừ khả năng áp dụng tương tự tại Trọng tài thương mại trong quá trình giải quyết các tranh chấp.

Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai và đồng ý với việc Trọng tài thương mại được áp dụng án lệ trong quá trình giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyền của mình. Bởi vì, ngoài các quy định pháp luật đã viện dẫn nêu trên thì theo quy định tại Điều 2 Luật TTTM năm 2010 về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài thương mại như sau:

“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.

2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại.

3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài”.

Theo quy định trên cho thấy, ngoài việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, Luật TTTM đã mở rộng phạm vi giải quyết tranh chấp mà không nhất thiết đối tượng tranh chấp phải phát sinh từ hoạt động thương mại hay các bên trong quan hệ tranh chấp đều thực hiện hoạt động thương mại[12]. Quy định này đã phần nào giúp giảm tải số lượng các tranh chấp dân sự nói chung[13] phải giải quyết cho các Tòa án, cũng như mở rộng phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại nói riêng. Tuy nhiên, thẩm quyền này chỉ phát sinh khi các bên có thoả thuận trọng tài, được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp và thỏa thuận này phù hợp với quy định pháp luật. Nguyên tắc này được quy định cụ thể tại Điều 5 và Điều 6 Luật TTTM 2010[14].

Về luật áp dụng giải quyết tranh chấp trong tố tụng trọng tài: Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật TTTM 2010 quy định: “Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp”. Khoản 2 Điều 6 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”.

Như vậy, theo các quy định pháp luật nêu trên tác giả thấy rằng Trọng tài thương mại hoàn toàn có quyền áp dụng án lệ để giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, bao gồm các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, tranh chấp phát sinh trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại và tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài. Do đó, quan điểm về việc Trọng tài không có quyền áp dụng án lệ để giải quyết tranh chấp nêu trên theo tác giả có phần cứng nhắc và máy móc do các quy định của Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP, Luật TTTM và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này không quy định Trọng tài có quyền hay bắt buộc phải áp dụng án lệ trong quá trình giải quyết tranh chấp, nhưng cũng không có quy định nào cấm Trọng tài áp dụng án lệ. Khi pháp luật không cấm thì Trọng tài hoàn toàn được quyền áp dụng án lệ nếu việc áp dụng án lệ phù hợp, đúng với tình huống án lệ, giải pháp pháp lý, nội dung của án lệ và đảm bảo tính thuyết phục của Phán quyết trọng tài khi ban hành. Hơn nữa, Trọng tài thương mại cũng là cơ quan tài phán, được quyền ra phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và có hiệu lực thi hành[15]. Án lệ chỉ là một trong những căn cứ để Trọng tài ban hành Phán quyết trọng tài (nếu có áp dụng án lệ) và là một trong những nội dung của phán quyết trọng tài[16], đây là thẩm quyền của Hội đồng trọng tài vì Tòa án “không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết” khi Tòa án xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài[17].

Ngoài ra, tại Điều 2 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP về tiêu chí lựa chọn án lệ quy định án lệ “có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể”; “có tính chuẩn mực”; “có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”. Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 6 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”. Như vậy, án lệ khi đã được công bố thì các cơ quan, người có thẩm quyền có thể nghiên cứu, áp dụng chứ không phải chỉ riêng Tòa án mới được quyền áp dụng. Điều này cũng phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 14 BLDS 2015: “Trường hợp quyền dân sự bị xâm phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài”.

Như vậy, trong quá trình giải quyết các tranh chấp mà Trọng tài cần làm rõ hơn các căn cứ pháp lý cho phán quyết của mình thì việc Trọng tài viện dẫn và áp dụng án lệ là hoàn toàn phù hợp vì việc áp dụng án lệ là nhằm làm rõ quy định của pháp luật, đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và đảm bảo nguyên tắc Tòa án không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết[18].

Phán quyết trọng tài là quyết định chung thẩm, không được kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực kể từ ngày được ban hành, có giá trị ràng buộc đối với các bên[19]. Tuy nhiên, phán quyết trọng tài vẫn có khả năng bị Tòa án hủy, tạo ra tâm lý e ngại khi áp dụng án lệ để giải quyết tranh chấp bởi phán quyết của Trọng tài có khả năng bị Tòa án hủy. Theo số liệu do Hội Luật gia Việt Nam tổng hợp, từ năm 2011-2024, có 43 trên 181 vụ án trọng tài bị hủy, trong đó 45% là do phán quyết trọng tài trái với pháp luật Việt Nam. Điều này không chỉ làm lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc của các bên tranh chấp mà còn phần nào làm giảm niềm tin của doanh nghiệp và nhà đầu tư vào cơ chế trọng tài[20].

Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010, một trong các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Tòa án xem xét lại phán quyết trọng tài nếu có đủ căn cứ chứng minh Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp sau đây:

“a) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu;

b) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;

c) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị hủy;

d) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;

đ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.

Trường hợp “phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” được giải thích tại điểm đ khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP như sau: Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam “là phán quyết vi phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam”.

Đối chiếu với các quy định nêu trên cho thấy, không có cơ sở pháp lý nào để Tòa án hủy phán quyết của Trọng tài vì lý do Trọng tài áp dụng án lệ. Thực tế, kể từ khi án lệ chính thức được thừa nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam, theo thông tin trên Trang tin https://congbobanan.toaan.gov.vn/ của TANDTC thì hiện tại chưa ghi nhận quyết định nào của Tòa án về việc hủy phán quyết trọng tài với lý do phán quyết của trọng tài có áp dụng án lệ.

3. Đề xuất

Tại Việt Nam hiện nay, án lệ được thừa nhận chính thức là nguồn pháp luật và ngày càng được mở rộng về số lượng. Điều này có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong công tác xét xử của Tòa án mà còn trong quá trình giải quyết tranh chấp của Trọng tài. Án lệ là có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, xử lý kịp thời các vướng mắc phát sinh khi vấn đề tranh chấp không có hoặc có điều luật áp dụng nhưng chưa rõ ràng, mà việc ban hành, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật cần rất nhiều thời gian mới giải quyết được. Án lệ đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp một cách nhanh gọn và hiệu quả đối với các bên lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên; tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho các phán quyết của Trọng tài, tạo độ tin cậy, thuyết phục, khuyến khích sự lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng phương thức Trọng tài, giảm tải phần nào công việc cho hệ thống Tòa án. Tuy nhiên, việc áp dụng án lệ trong việc giải quyết tranh chấp của Trọng tài hiện nay cũng đang có nhiều quan điểm khác nhau do thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng để điều chỉnh vấn đề này. Do đó, để có cơ sở pháp lý rõ ràng về việc áp dụng án lệ trong việc giải quyết tranh chấp của Trọng tài thì cần thiết phải xây dựng những quy định mang tính nguyên tắc áp dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và tăng cường các giải pháp nhằm đảm bảo việc áp dụng, viện dẫn án lệ trong lĩnh vực này. Trước mắt, có thể xem xét việc đưa quy định về vấn đề này trong quá trình sửa đổi Luật TTTM trong thời gian tới, đồng thời xem xét sửa đổi quy định về việc viện dẫn, áp dụng án lệ tại Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP để án lệ không chỉ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử mà để các cá nhân, tổ chức khác cũng được nghiên cứu, áp dụng trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, công việc và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi các văn bản pháp luật không điều chỉnh hoặc có điều chỉnh nhưng không rõ ràng, còn nhiều cách hiểu và áp dụng không thống nhất, trong đó có Trọng tài thương mại cũng có quyền nghiên cứu, áp dụng án lệ trong quá trình giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyền của mình.

 

TS. NGUYỄN VIẾT GIANG (Trưởng phòng Phòng Tổng kết thực tiễn xét xử và Phát triển án lệ, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, TANDTC)

[1] Điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014.

[2] Điều 32 Luật Tổ chức TAND năm 2024 quy định về việc lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ như sau:

“1. Án lệ được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố để nghiên cứu, tham khảo, áp dụng trong xét xử, giải quyết vụ án, vụ việc.

2. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc lựa chọn, công bố, áp dụng án lệ.”

[3] Trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của Tòa án, https://congbobanan.toaan.gov.vn/0t15at1cvn/Tra-cu-ban-an/, truy cập ngày 03/02/2025.

[4] Dạ Lê, Phát triển trọng tài thương mại Việt Nam thời hội nhập, https://thesaigontimes.vn/phat-trien-trong-tai-thuong-mai-viet-nam-thoi-hoi-nhap/, truy cập ngày 03/02/2024.

[5] Dạ Lê, Tlđd (4).

[6] VIAC, Thống kê hoạt động giải quyết tranh chấp tại VIAC (1993 - 2022), https://www.viac.vn/thong-ke/thong-ke-hoat-dong-giai-quyet-tranh-chap-tai-viac-1993-2022-s39.html, truy cập ngày 06/02/2025.

[7] Dạ Lê, Tlđd (4).

[8] VIAC, Thống kê hoạt động giải quyết tranh chấp tại VIAC (1993 - 2022), https://www.viac.vn/thong-ke/thong-ke-hoat-dong-giai-quyet-tranh-chap-tai-viac-1993-2022-s39.html, truy cập ngày 06/02/2025.

9 Kiều Anh Vũ, Áp dụng án lệ số 09/2016/AL trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại toà án và trọng tài, https://mcac.vn/giai-quyet-tranh-chap-kinh-doanh-thuong-mai-tai-toa-an-va-trong-tai/, truy cập ngày 05/02/2025.

[10]    Kiều Anh Vũ, Tlđd (4).

[11] VAIC, Áp dụng án lệ điều chỉnh quan hệ hợp đồng, https://www.viac.vn/thu-tuc-trong-tai/071-%7C-ap-dung-an-le-dieu-chinh-quan-he-hop-dong-%C2%A0-a214.html, truy cập ngày 05/02/2025.

[12] Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.”

[13] Xem thẩm quyền giải quyết tranh chấp về dân sự của Tòa án tại Điều 26, tranh chấp về kinh doanh, thương mại tại Điều 30 BLTTDS năm 2015. Theo đó, tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

[14] Điều 5 Luật TTTM năm 2010 quy định về điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài như sau: “1. Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. 2. Trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài vân có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. 3. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vân có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”.

Điều 6 Luật TTTM năm 2010  quy định: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được".

[15] khoản 5 Điều 61 Luật TTTM năm 2010.

[16] Điểm đ khoản 1 Điều 61 Luật TTTM năm 2010.

[17] Khoản 4 Điều 71 Luật TTTM năm 2010.

[18] Điều 6, Điều 68 Luật TTTM năm 2010.

[19] Khoản 5 Điều 61 Luật TTTM năm 2010.

[20] Dạ Lê, Tldd (4).

VKSND quận Hải Châu (TP Đà Nẵng) phối hợp với TAND quận Hải Châu tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” - Ảnh: Thu Hiếu.