.jpg)
Nâng cao hiệu quả công tác ủy thác thi hành án hình sự trong bối cảnh chuyển đổi số
Một trong những hoạt động thường xuyên của công tác thi hành án hình sự là ủy thác thi hành án hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định về ủy thác thi hành án hình sự hiện nay còn nhiều vướng mắc, bất cập, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thi hành án.
Thực hiện nhiệm vụ “Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân” theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, ngành Tòa án đang tích cực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số, bảo đảm cơ bản hoàn thành xây dựng Tòa án điện tử vào năm 2025 theo cam kết của Tòa án nhân dân tối cao tại Hội nghị Chánh án các nước ASEAN. Do vậy, việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế để nâng cao hiệu quả công tác ủy thác thi hành án hình sự góp phần đáp ứng yêu cầu chung về cải cách tư pháp là nhiệm vụ cấp thiết.
1. Thực trạng công tác ủy thác thi hành án hình sự hiện nay
1.1. Quy định pháp luật hiện hành về ủy thác thi hành án hình sự
Về thẩm quyền, thời hạn thực hiện ủy thác: Theo quy định tại Điều 364 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án. Thời hạn ra quyết định ủy thác là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Về những trường hợp ủy thác: Hiện nay, những trường hợp ủy thác thi hành án hình sự vẫn được thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 ngày 02/10/2027 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ năm “thi hành bản án và quyết định của Tòa án” của Bộ luật Tố tụng hình sự, theo đó việc ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án chỉ được thực hiện khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
- Sau khi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án ra quyết định thi hành án và đã gửi cho cơ quan Công an cùng cấp để thi hành, nhưng cơ quan Công an cùng cấp thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể;
- Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án có căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác.
Về xử lý khi tiếp nhận hồ sơ ủy thác: Tại Công văn số 156/TANDTC-PC ngày 13/9/2021 của Tòa án nhân dân tối cao về việc ra quyết định thi hành án, theo dõi việc thi hành án hình sự đã hướng dẫn: Khi nhận được quyết định ủy thác, Tòa án được ủy thác phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án. Căn cứ kết quả xác minh, tùy trường hợp để vận dụng tinh thần hướng dẫn tại điểm d tiểu mục 2.1 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP để xử lý. Trường hợp Tòa án được ủy thác không biết địa chỉ của người bị kết án thì thông báo bằng văn bản cho Tòa án đã ủy thác biết. Trong trường hợp này, Tòa án đã ủy thác ra quyết định thi hành án và căn cứ khoản 3 Điều 364 của Bộ luật Tố tụng hình sự yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi người bị kết án phạt tù đang tại ngoại ra quyết định truy nã. Trường hợp sau khi xác minh, Tòa án được ủy thác thi hành án thấy có đủ điều kiện thi hành án thì phải ra quyết định thi hành án.
1.2. Những khó khăn, vướng mắc
Quy trình thực hiện ủy thác thi hành án hình sự hiện nay đã được quy định khá rõ ràng trong các văn bản pháp lý. Tuy nhiên, khi thực hiện vẫn còn thiếu sự đồng bộ giữa các cơ quan có thẩm quyền, gây khó khăn cho công tác thi hành án hình sự.
Về hồ sơ ủy thác thi hành án: Hồ sơ các Tòa án ủy thác thường gửi kèm theo quyết định ủy thác thi hành án hình sự gồm bản án/quyết định có hiệu lực pháp luật, danh bản, chỉ bản, lý lịch bị can, trích lục tiền án, tiền sự, thủ tục tạm giữ, tạm giam (nếu có) và một số tài liệu khác cần thiết cho việc thi hành án. Hiện nay chưa có văn bản nào quy định cụ thể hồ sơ ủy thác thi hành án hình sự phải gửi kèm những tài liệu cần thiết gì dẫn đến tình trạng mỗi Tòa án lập hồ sơ ủy thác khác nhau, các Tòa án nhận ủy thác lại hiểu và có thêm yêu cầu khác gây ra tình trạng kéo dài thời gian để yêu cầu bổ sung tài liệu hoặc trả lại hồ sơ trong khi đó thời hạn xử lý khi nhận được ủy thác chỉ trong vòng 07 ngày kể từ ngày nhận được ủy thác. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này một phần cũng xuất phát từ yêu cầu của Cơ quan Thi hành án hình sự nơi nhận ủy thác. Hiện nay chưa có văn bản liên ngành quy định chi tiết về các tài liệu ủy thác, các cơ quan thi hành án hình sự mỗi địa phương lại có yêu cầu về tài liệu khác nhau và không đồng ý tiếp nhận hồ sơ thi hành án từ Tòa án nhận ủy thác chuyển sang khi chưa có đầy đủ tài liệu theo yêu cầu. Mục đích của việc ủy thác và tiếp nhận ủy thác là để bảo đảm bản án có hiệu lực phải được thi hành đúng quy định, nhưng cơ quan thi hành cuối cùng không tiếp nhận hồ sơ thì mục đích của hoạt động này không đạt được nên các Tòa án thường chấp nhận theo yêu cầu của Cơ quan thi hành án hình sự, mặc dù có một số yêu cầu cũng không hợp lý, ví dụ: không chấp nhận bản án sao y hợp lệ theo quy chuẩn của Tòa án nhân dân tối cao mà yêu cầu phải là bản gốc,..
Về thời hạn xử lý khi tiếp nhận ủy thác: Theo quy định tại khoản 2 Điều 364 BLTTHS 2015 thì trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được ủy thác của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thì Chánh án Tòa án nơi nhận ủy thác phải ra quyết định thi hành án. Tuy nhiên, trường hợp việc ủy thác có sai sót cần chờ văn bản đính chính hoặc chờ bổ sung tài liệu của Tòa án ủy thác gửi thì Tòa án nhận ủy thác có thể sẽ ban hành quyết định thi hành án không bảo đảm đúng thời hạn quy định. Bên cạnh đó, việc Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn khi nhận ủy thác Tòa án phải tiến hành xác minh cư trú của người bị kết án đang tạo thêm áp lực công việc cho Tòa án nhận ủy thác trong khi thực tế người phụ trách công tác thi hành án hình sự ở các Tòa án hiện nay chủ yếu còn phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác. Kết quả xác minh cho thấy rất nhiều trường hợp người bị kết án không có mặt tại nơi cư trú ghi trong quyết định ủy thác do đi làm ăn xa hoặc cố tình né tránh việc thi hành án nên Tòa án nhận ủy thác phải trả hồ sơ. Sau khi Tòa án ủy thác làm việc thì người bị kết án lại cam kết về nơi cư trú chấp hành án và gửi lại hồ sơ ủy thác làm mất rất nhiều thời gian.
Về việc gửi hồ sơ ủy thác: Hiện nay Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng, triển khai áp dụng nhiều phần mềm điện tử phục vụ cho nhiệm vụ chuyển đổi số như phần mềm quản lý án, phần mềm quản lý văn bản và điều hành… tuy nhiên các phần mềm này chưa được ứng dụng rộng rãi trong công tác ủy thác thi hành án hình sự. Việc ủy thác thi hành án hình sự đã được yêu cầu cập nhật trên phần mềm quản lý án của Tòa án nhân dân tối cao, tuy nhiên việc cập nhật này chủ yếu mang tính thống kê, còn hồ sơ ủy thác cụ thể để tiếp nhận xử lý vẫn phải gửi hồ sơ giấy trực tiếp hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính làm tốn chi phí in ấn, chi phí gửi và mất nhiều thời gian cho việc gửi hồ sơ, thông thường thời gian để nhận được hồ sơ qua dịch vụ bưu chính là khoảng 03-07 ngày kể từ ngày gửi.
Về hậu quả của những khó khăn, vướng mắc: Tình trạng các Tòa án nhận ủy thác yêu cầu bổ sung “tài liệu cần thiết cho việc thi hành án”, trả hồ sơ do không bổ sung tài liệu, việc gửi hồ sơ ủy thác bằng phương thức truyền thống gây ra sự chậm trễ đang làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc tổ chức thi hành án, việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kết án, đặc biệt là các loại án phạt buộc người bị kết án phải chấp hành tại cộng đồng như phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ… khi thời hạn chấp hành án được tính kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày cơ quan thi hành án hình sự nhận được quyết định thi hành án.
2. Một số đề xuất, kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả công tác ủy thác thi hành án hình sự trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, tác giả kiến nghị thực hiện một số giải pháp sau:
2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về ủy thác thi hành án hình sự
- Kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành văn bản liên ngành hướng dẫn chi tiết quy trình, thành phần hồ sơ ủy thác thi hành án hình sự cụ thể, bảo đảm áp dụng thống nhất trong toàn quốc, tránh tình trạng mỗi nơi yêu cầu khác nhau.
- Kiến nghị cần sớm bổ sung quy định về phương thức “ủy thác điện tử”, ban hành văn bản pháp luật chuyên ngành công nhận giá trị pháp lý của hồ sơ ủy thác điện tử, chữ ký số trong lĩnh vực thi hành án hình sự, quy định về trình tự, thủ tục thực hiện ủy thác bằng phương thức điện tử, yêu cầu về bảo mật thông tin và các tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật liên quan đến thời hạn xử lý hồ sơ ủy thác để phù hợp với thực tiễn chuyển đổi số, đặc biệt đối với những trường hợp cần xác minh nơi cư trú của người bị kết án hoặc yêu cầu bổ sung tài liệu.
2.2. Triển khai thực hiện phương thức “ủy thác điện tử” và liên thông dữ liệu
- Đẩy mạnh việc triển khai áp dụng phần mềm điện tử trong toàn bộ quá trình ủy thác và tiếp nhận ủy thác. Bước đầu thực hiện có thể tiến hành xây dựng và tích hợp chức năng ủy thác thi hành án hình sự trên hệ thống phần mềm quản lý án hiện hành, cho phép chuyển giao hồ sơ điện tử có giá trị pháp lý giữa các Tòa án thông qua chữ ký số, hoặc cho phép gửi hồ sơ trên hệ thống quản lý văn bản và điều hành để đảm bảo tiếp nhận, đối chiếu hồ sơ xử lý nhanh chóng nếu có sai sót. Đồng thời Tòa án ủy thác vẫn gửi song song hồ sơ giấy cho Tòa án nhận ủy thác để hồ sơ khi bàn giao cho cơ quan thi hành án hình sự vẫn đảm bảo giá trị pháp lý theo quy định pháp luật hiện hành.
- Từng bước đầu tư và hoàn thiện cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật hiện đại thực hiện liên thông dữ liệu giữa Tòa án với Viện kiểm sát và Cơ quan thi hành án hình sự, tiến tới thay thế hoàn toàn việc gửi hồ sơ giấy, bảo đảm việc gửi nhận hồ sơ giữa các cơ quan được cập nhật đồng bộ, an toàn, nhanh chóng; kết nối với hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư cho phép Tòa án tra cứu các thông tin cần thiết phục vụ việc xác minh điều kiện thi hành án, nơi cư trú của người bị kết án…
2.3. Về nguồn nhân lực thực hiện
Nguồn nhân lực là yếu tố then chốt quyết định thành công của việc thực hiện đổi mới, hoàn thiện công tác ủy thác thi hành án hình sự trong giai đoạn chuyển đổi số.
- Tại mỗi đơn vị đề xuất bố trí cán bộ chuyên trách phụ trách thi hành án hình sự, hạn chế tối đa tình trạng kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực, ưu tiên bố trí cán bộ có kinh nghiệm thực tiễn, am hiểu pháp luật tố tụng hình sự và có kỹ năng công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
- Hiện nay trình độ chuyên môn của đội ngũ làm công tác thi hành án hình sự tương đối đáp ứng yêu cầu công việc, tuy nhiên kỹ năng xử lý các tình huống phức tạp chưa đồng đều, kỹ năng ứng dụng về công nghệ thông tin còn hạn chế. Do đó cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, các buổi tập huấn chuyên sâu để nâng cao trình độ, kỹ năng cho cán bộ làm công tác thi hành án hình sự, trong đó đặc biệt chú trọng hướng dẫn về quy trình, kỹ năng xử lý hồ sơ điện tử.
Trong bối cảnh chuyển đổi số đang được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực, việc đổi mới quy trình, cách thức thực hiện ủy thác thi hành án hình sự là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kết án cũng như góp phần duy trì trật tự, an toàn xã hội. Việc áp dụng công nghệ thông tin, điện tử hóa quy trình ủy thác không chỉ giúp tiết kiệm thời gian, chi phí mà còn nâng cao tính minh bạch, chính xác và hiệu quả trong thi hành án. Tuy nhiên, để thực hiện thành công đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp từ việc hoàn thiện hành lang pháp lý, đầu tư hạ tầng kỹ thuật, đến đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu mới.
Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự - Ảnh: CALC.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Thống nhất nhận thức về cách thức, điều kiện thụ lý để xem xét hủy quyết định cá biệt theo quy định tại Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
-
Danh sách địa điểm đặt trụ sở chính của 34 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 355 Tòa án nhân dân khu vực
-
Bình Phước: Tìm nhân chứng là hành khách trên xe khách mang biển kiểm soát 47B–022.22
-
Bộ đội Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Bình Hiệp: Giữ vững ''phên dậu'' Tổ quốc!
-
Trao đổi ý kiến về bài viết “bên đặt cọc hay bên nhận đặt cọc có lỗi?”
Bình luận