Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính - Đề xuất và kiến nghị hoàn thiện

Trong phạm vi bài viết này nhóm tác giả sẽ phân tích làm rõ các vấn đề lý luận về nội hàm tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính (TTHC), nội dung và ý nghĩa của nó, khái quát các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng, từ đó để đúc kết lại những bất cập từ thực trạng và đề ra những đề xuất và kiến nghị để hoàn thiện.

Tranh tụng là một trong những nội dung quan trọng, mang tính đột phá trong chiến lược cải cách tư pháp của nước ta hiện nay[1]. Có thể khẳng định rằng tranh tụng có vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án, nó góp phần rất lớn trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Vì thế, trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay vấn đề nâng cao hiệu quả nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng nói chung và trong TTHC nói riêng là hết sức cần thiết và đã có không ít những bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này. Để bảo đảm và thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng trong TTHC nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hành chính (VAHC), hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ các quyết định, bản án hành chính bị hủy, sửa.

1. Cơ sở lý luận

Nguyên tắc tranh tụng có vai trò rất quan trọng TTHC, nó góp phần xác định sự thật, giải quyết khách quan và toàn diện vụ án, tranh tụng thực chất là hình thức tố tụng mà trong đó các bên tham gia tố tụng thực hiện việc chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của họ thông qua việc thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ. Do đó, cần làm rõ vấn đề lý luận về nguyên tắc tranh tụng trong TTHC là hết sức cần thiết, từ đó, giúp cho những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hiểu rõ và thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng trong TTHC.

+ Tranh tụng phát huy được tính tích cực, chủ động của các đương sự trong việc thu thập, cung cấp, đánh giá tài liệu, chứng cứ chứng minh cho quyền và lợi ích của họ và thực hiện tranh tụng theo quy định của pháp luật TTHC giúp cho Tòa án nhanh chóng nắm bắt và hiểu được các tình tiết trong vụ án để xác định sự thật, bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của đương sự trong vụ án.

+ Tranh tụng trong TTHC, các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật tranh chấp thì đều có quyền tự do, bình đẳng trước pháp luật[2], họ có ngang quyền và nghĩa vụ tố tụng với nhau, trong quan hệ pháp luật tranh chấp hành chính có chủ thể đặc biệt bắt buộc người bị kiện là cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, vì thế khi giải quyết VAHC cần phải thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng trong TTHC để tránh sự e ngại vẻ bề ngoài về vị thế một bên là yếu thế và một bên là quyền lực nhà nước, VAHC dân gian thường gọi là “dân” kiện “quan”.

+ Tranh tụng thực chất là việc các bên đương sự đưa ra các tài liệu, chứng cứ, căn cứ pháp lý, lập luận, đối đáp, tranh luận với nhau để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước sự xem xét, chứng kiến của Tòa án. Thông qua việc tranh tụng Tòa án xác định được sự thật khách quan của vụ án. Khi một bên đưa ra chứng cứ[3] chứng minh được tính có căn cứ và hợp pháp đối với yêu cầu của mình thì bên phản đối cũng phải đưa ra chứng cứ chứng minh cho sự phản đối với mình là có căn cứ và hợp pháp. Để bảo đảm giải quyết VAHC được khách quan và đúng pháp luật thì các đương sự phải được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật TTHC.

+ Tranh tụng xuất phát từ yêu cầu xét xử đúng pháp luật của VAHC. Tranh tụng có ý nghĩa rất lớn trong việc tìm ra sự thật của vụ án, bảo vệ quyền lợi của đương sự. Để giải quyết vụ án đúng pháp luật thì Tòa án phân tích, đánh giá chứng cứ các đương sự cung cấp, dựa vào chứng cứ và lý lẽ của đương sự cung cấp và đưa ra Tòa án thẩm tra để làm rõ nội dung tranh chấp và yêu cầu của đương sự, rồi đưa ra phán quyết khách quan và đúng pháp luật.

2. Thực tiễn pháp luật, bất cập và vướng mắc - một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Đánh giá thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong TTHC là một vấn đề hết sức cần thiết. Chính vì thế, cần thiết phải làm rõ thực tiễn để tìm ra những bất cập và vướng mắc là vấn đề cần phải làm và từ đó đưa ra đề xuất, kiến nghị để thực hiện tốt và có hiệu quả nguyên tắc tranh tụng trong TTHC trong thời gian tới. Trong TTHC, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong TTHC trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình[4]. Các quy định về sự bình đẳng là nền tảng căn bản để thực hiện nguyên tắc tranh tụng, tạo ra điều kiện và môi trường tốt nhất cho đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự[5] thực hiện quyền tranh tụng. Quy định về quyền bình đẳng là tiền đề cốt lõi cho việc thực thi nguyên tắc tranh tụng trong TTHC.

2.1. Quyền đưa ra ý kiến, yêu cầu độc lập

Quyền đưa ra ý kiến là một trong những quyền liên quan đến tranh tụng trong TTHC, quyền đưa ra ý kiến nhằm bảo đảm cho người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến đối với yêu cầu của người khởi kiện và cung cấp tài liệu, chứng cứ kèm theo để phản bác lại yêu cầu của người khởi kiện; trong thời gian quy định của pháp luật nếu người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến mà không có lý do chính đáng thì Tòa án sẽ tiến hành xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật[6]. Quyền yêu cầu độc lập là quyền mà pháp luật dành riêng cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong vụ án khi họ không tham gia tố tụng với người khởi kiện hoặc với người bị kiện. Quyền yêu cầu độc lập nó phải có liên quan đến quyền và lợi ích của họ và việc giải quyết vụ án, đồng thời giải quyết yêu cầu của họ trong cùng vụ án sẽ chính xác và nhanh hơn.

Tuy nhiên, họ chỉ được thực hiện quyền yêu cầu độc lập trong khoảng thời gian và theo thủ tục nhất định mà pháp luật cho phép, cụ thể theo khoản 2 Điều 129 Luật TTHC năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập đến thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại”. Bản chất mục đích của phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ[7] theo quan điểm của nhóm tác giả là nhằm để các đương sự trong VAHC đưa ra các ý kiến và yêu cầu của chính mình đối với các vấn đề cần xem xét giải quyết trong VAHC, giúp cho các đương sự hiểu biết được các tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác giao nộp, để họ được đưa ra yêu cầu đề nghị Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ và triệu tập người khác tham gia tố tụng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 129 Luật TTHC thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ được quyền đưa ra yêu cầu độc lập đến thời điểm mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nghĩa là sau thời điểm mở phiên họp thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có quyền đưa ra yêu cầu độc lập đối với người khởi kiện hoặc người bị kiện trong VAHC, quy định này liệu có phù hợp giải quyết được triệt để các vấn đề và nội dung tranh chấp giữa các bên trong VAHC hiện nay.

Ví dụ: Người khởi kiện A khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường của người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện B. Sau khi thụ lý vụ án thì Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại giữa A và B, nhưng việc đối thoại không thành. Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ thì xác định được trên phần đất bị thu hồi có nhiều công trình và tài sản của C trên đất, nên quá trình giải quyết vụ án Tòa án ra thông báo đưa C tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Căn cứ ví dụ nêu trên, thì nếu trường hợp sau khi được Tòa án đưa tham gia tố tụng thì C có quyền được đưa ra yêu cầu độc lập trong vụ án trong khi vụ án Thẩm phán đã tiến hành phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ không, vấn đề này chúng ta đối chiếu lại quy định tại khoản 2 Điều 129 Luật TTHC thì C không được thực hiện quyền yêu cầu độc lập của mình trong VAHC giữa A và B khi được tham gia tố tụng trong vụ án, thực tế nếu không thụ lý yêu cầu độc lập của C để giải quyết trong cùng vụ án thì sẽ không xem xét được triệt để toàn diện vụ án được, còn nếu muốn giải quyết yêu cầu của C trong vụ án theo đúng trình tự quy định thì Tòa án sẽ hướng dẫn C khởi kiện vụ án khác, sau đó tiến hành ra quyết định nhập vụ án[8] (nhập yêu cầu khởi kiện của C vào vụ án giữa A và B) thì mới xem xét được yêu cầu của C trong cùng vụ án; giả sử trong trường hợp C không khởi kiện vụ án độc lập khác theo hướng dẫn của Tòa án mà cương quyết yêu cầu độc lập trong vụ án thì Tòa án có thụ lý yêu cầu độc lập của C hay không, trong trường hợp này nếu Tòa án không thụ lý yêu cầu độc lập của C trong cùng VAHC thì bản chất chỉ xem xét và giải quyết được xung đột về quyền lợi giữa A và B, còn đối với C thì sẽ tách ra giải quyết vụ án khác khi có yêu cầu.

Như vậy, vấn đề ở đây là cùng một vấn đề và sự việc yêu cầu chỉ liên quan đến quyết định hành chính (01 quyết định thu hồi đất và 01 quyết định bồi thường), nhưng lại giải quyết bằng hai vụ án khác nhau chỉ vì trình tự thủ tục tố tụng của Luật TTHC quy định. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án có thu thập được các tài liệu, chứng cứ[9] ngoài việc Tòa án thông báo tài liệu, chứng cứ cho các đương sự biết thì Thẩm phán có cần tổ chức thêm phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ lần thứ hai không, theo quan điểm của nhóm tác giả là cần thiết vì bản chất và mục đích của phiên họp như đã nêu trên thì việc mở phiên họp là nhằm để bảo đảm cho các đương sự thực hiện các quyền của mình khi tham gia tranh tụng tại Tòa án. Do đó, việc quy định về thời hạn đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ được thực hiện đến thời điểm mở phiên họp là chưa hợp lý, quy định này sẽ phần nào gây khó khăn trong quá trình xem xét và giải quyết triệt để các yêu cầu của các đương sự trong VAHC hiện nay.

Từ những phân tích trên, nhóm tác giả kiến nghị sửa đổi quy định về thời điểm đưa ra yêu cầu độc lập tại khoản 2 Điều 129 Luật TTHC năm 2015 theo hướng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập bất kỳ thời điểm nào trong giai đoạn chuẩn bị xét xử của VAHC, cụ thể: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

2.2. Quyền và nghĩa vụ trong việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ và được biết tài liệu, chứng cứ do người khác xuất trình

Việc quy định cung cấp tài liệu, chứng cứ[10] nhằm để các đương sự chủ động, tích cực trong các giai đoạn tố tụng, theo đó đương sự có quyền, nghĩa vụ đưa ra tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ hay phản bác lại yêu cầu của người khác là không có căn cứ. Để bảo đảm cho đương sự thực hiện tốt quyền và tạo điều kiện cho họ cung cấp tài liệu, chứng cứ trong tranh tụng, pháp luật TTHC còn quy định đương sự có quyền đề nghị Tòa án tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ hoặc đề nghị Tòa án buộc đương sự khác hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân xuất trình tài liệu, chứng cứ và được biết, ghi chép và sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập[11].

Đặc thù của VAHC như chúng ta đã biết thì chủ thể người bị kiện[12] và đối tượng khởi kiện[13] luôn là các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành và thực hiện; còn người khởi kiện[14] là cá nhân, tổ chức có quyền và lợi ích hợp pháp bị ảnh hưởng do các quyết định hành chính và hành vi hành chính, nên vị thế của các bên đương sự nhìn chung về mặt khách quan mà nói thì sẽ có sự chênh lệch. Trong quá trình giải quyết VAHC, Tòa án phải có trách nhiệm bảo đảm cho họ thực hiện quyền theo quy định của pháp luật TTHC[15] theo đó các đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh và bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nếu các đương sự không đưa ra các chứng cứ chứng minh hoặc không đưa ra các chứng cứ chứng minh không đầy đủ thì phải tự chịu hậu quả của việc không chứng minh và chứng minh không đầy đủ.

Ngoài việc quy định các đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ thì trong quá trình giải quyết VAHC, Luật TTHC còn cho phép Thẩm phán được quyền yêu cầu các đương cung cấp các tài liệu, chứng cứ trong thời gian nhất định không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử[16], cụ thể theo khoản 4 Điều 83 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ấn định nhưng không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm quy định tại Điều 130 của Luật này” và sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm đương sự mới giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp trước đó thì phải chứng minh lý do của việc giao nộp chậm, nếu không chứng minh được thì Tòa án không chấp nhận việc giao nộp chậm tài liệu, chứng cứ[17], cụ thể theo khoản 2 Điều 133 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, đương sự mới giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp trước đó thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự phải giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm”.

Như vậy, vấn đề này sẽ đồng nghĩa với việc Tòa án sẽ không xem xét tài liệu, chứng cứ đương sự giao nộp chậm để dùng vào việc đánh giá[18] tìm ra sự thật khách quan của vụ án; giả sử tài liệu, chứng cứ do đương sự giao nộp chậm là chứng cứ[19] quan trọng để chứng minh các tình tiết khách quan và xác định tính đúng đắn sự thật của VAHC thì sẽ dễ dẫn đến phán quyết của Tòa án không đúng với sự thật khách quan của VAHC và sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong VAHC. Vì vậy, việc quy định về thời hạn việc giao nộp tài liệu, chứng cứ trong thời hạn theo yêu cầu của Tòa án là chưa phù hợp với thực tế tranh tụng trong xét xử các VAHC hiện nay.

Trên cơ sở các vướng mắc, nhóm tác giả kiến nghị bãi bỏ quy định tại khoản 4 Điều 83 và khoản 2 Điều 133 Luật TTHC năm 2015 và đề xuất bổ sung thêm quy định: Trong quá trình giải quyết vụ án đương sự có quyền giao nộp, tài liệu, chứng cứ cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

2.3. Quyền bảo vệ và tranh luận

Quyền bảo vệ và tranh luận là quyền cực kỳ quan trọng đối với đương sự trong tranh tụng trong TTHC, vì quyền này giúp họ trình bày và thể hiện quan điểm, luận điểm của mình đối với các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu hoặc sự phản bác của họ là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật. Đương sự có quyền tự bảo vệ, nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình[20], xuất phát từ lợi ích chính đáng của họ nên pháp luật cho phép họ tự mình hoặc nhờ người khác (nhưng những người này phải được pháp luật cho phép làm và được Tòa án làm thủ tục đăng ký[21]) để bảo vệ quyền và lợi ích cho họ. Bắt nguồn từ quyền bảo vệ của đương sự sẽ bắc cầu cho họ thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích thông qua quyền tranh luận (quyền này rất cần thiết, thực tế và hiệu quả cho đương sự trong tranh tụng), quyền tranh luận của đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được cụ thể hóa và rõ hơn khi thực hiện tại phiên tòa[22], vì nó trở thành sản phẩm của kết quả tranh tụng trong TTHC.

Tranh tụng tại phiên tòa[23] theo Luật TTHC gồm có các phần trình bày, phần hỏi, phần tranh luận, phần phát biểu của Kiểm sát viên (KSV)[24] (nếu có đại diện Viện kiểm sát tham gia) và phần nghị án theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa. Thực tế, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tôn trọng và bảo đảm cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nên họ đã thực hiện khá tốt quyền tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, dần làm cho nguyên tắc tranh tụng trở thành nguyên tắc quan trọng trong TTHC, các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa một cách khách quan và trung thực, nên chất lượng xét xử trong giải quyết VAHC ngày càng được nâng cao. Việc đổi mới các thủ tục tại phiên tòa được triển khai sâu rộng khi giải quyết các vụ án đúng theo tinh thần cải cách tư pháp.

Tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng vai trò của mình, tạo điều kiện tối đa cho các đương sự chủ động trong quá trình đưa ra tài liệu, chứng cứ, quan điểm, lập luận đặc biệt là các vụ án có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia đã thể hiện được sự bình đẳng, dân chủ, công khai, cởi mở trong việc giải quyết vụ án. Về việc tranh tụng tại phiên tòa trong TTHC hiện nay về mặt pháp luật theo quy định của Luật TTHC đã và đang được áp dụng nêu cao được hiệu quả tranh tụng giữa các bên liên quan đến vấn đề sự việc cần được giải quyết trong VAHC.

Bên cạnh những kết quả và chất lượng trong việc giải quyết VAHC hiện nay thì việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong TTHC cũng còn có bất cập ở giai đoạn sau giai đoạn tranh luận của các đương sự; ở giai đoạn phát biểu tranh luận[25] tại phiên tòa theo quy định của pháp luật hiện hành đã tạo nên sự công bằng và bình đẳng giữa các đương sự và người tham gia tố tụng về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ để đưa ra những ý kiến, lý lẽ, lập luận để chứng minh cho yêu cầu và quyền lợi ích hợp pháp của mình, để Hội đồng xét xử xem xét nghị án[26] đưa ra phán quyết giải quyết yêu cầu của các bên trong VAHC. Tuy nhiên, sau thời điểm kết thúc đối đáp tranh luận giữa các bên và trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì còn có quy định phát biểu của KSV[27], cụ thể KSV ngoài việc phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng thì còn có quyền phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án; như vậy, việc phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án của KSV được thực hiện sau khi kết thúc phần tranh luận của các đương sự, nên việc phát biểu ý kiến và đề nghị về việc giải quyết vụ án của KSV nếu bất lợi cho một đương sự thì sẽ gây bức xúc đối với họ, trong khi họ không được đưa ra những lập luận đối đáp lại với quan điểm của KSV như ở giai đoạn tranh luận giữa các bên đương sự với nhau. Hơn nữa, VKSND là cơ quan nhà nước thực hiện quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất[28]; nếu cơ chế pháp luật quy định KSV đại diện VKSND phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án thì cũng cần phải có quy định cho đương sự được quyền tranh luận và đối đáp đối với quan điểm, lập luận của KSV về ý kiến và quan điểm giải quyết VAHC thì mới bảo đảm việc thực hiện quyền tranh tụng của các đương sự trong VAHC hiện nay và kết quả của việc tranh luận sẽ góp phần nâng cao hiệu quả tranh tụng trong TTHC trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.

Từ đó, nhóm tác giả đề xuất bổ sung quy định đương sự được quyền tranh luận và đối đáp lại với ý kiến phát biểu về việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tham gia phiên tòatrong Luật TTHC.

3.Kết luận

Tranh tụng trong TTHC là phương pháp giải quyết VAHC dựa trên cơ sở thực hiện quyền và nghĩa vụ TTHC của các bên đương sự về việc đưa ra tài liệu, chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho yêu cầu của mình hoặc phản bác yêu cầu của bên kia, được Tòa án làm căn cứ để giải quyết vụ án. Trong đó, tranh luận là sự biểu hiện cao nhất trong tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Nguyên tắc tranh tụng trong TTHC được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng thống nhất cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật để giải quyết các VAHC, mà Tòa án căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra phán quyết, nguyên tắc tranh tụng có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp Tòa án giải quyết các vụ án nhanh và chính xác, đồng thời là phương thức giải quyết vụ án tối ưu, bình đẳng, dân chủ, công khai, minh bạch.

Với những đề xuất và kiến nghị nêu trên, nhóm tác giả hy vọng sẽ đóng góp phần nào hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng của nguyên tắc tranh tụng trong TTHC để chất lượng giải quyết, xét xử của ngành Tòa án ngày càng được nâng lên và ngày càng nâng cao vị thế của mình, đồng thời đáp ứng được mục tiêu và nhiệm vụ cải cách tư pháp của Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới.

 

 

 

 

ThS. TRƯƠNG HUỲNH HẢI - ThS. TRƯƠNG MINH CHIẾN - DƯƠNG THỊ THÊU (TAND huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau)

[1] Điểm c khoản 1 Mục B Phần II Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Tiểu mục 2.2 Mục 2 Phần II Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.

[2] Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm 2013.

[3] Điều 80 Luật TTHC năm 2015.

[4] Điều 17 Luật TTHC năm 2015.

[5] Điều 53 Luật TTHC năm 2015.

[6] Khoản 1, khoản 2 Điều 128 Luật TTHC năm 2015.

[7] Khoản 2 Điều 138 Luật TTHC năm 2015.

[8] Khoản 1 Điều 35 Luật TTHC năm 2015.

[9] Khoản 2 Điều 84 Luật TTHC năm 2015.

[10] Điều 9, khoản 5 Điều 55 Luật TTHC năm 2015.

[11] Khoản 6, 7, 8 Điều 55 Luật TTHC năm 2015.

[12] Khoản 9 Điều 3 Luật TTHC năm 2015.

[13] Khoản 1, 2, 3, 4 Điều 3 Luật TTHC năm 2015.

[14] Khoản 8 Điều 3 Luật TTHC năm 2015.

[15] Khoản 3 Điều 175 Luật TTHC năm 2015.

[16] Điều 130 Luật TTHC năm 2015.

[17] Mục 2 Phần I Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của TANDTC giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự.

[18] Điều 95 Luật TTHC năm 2015.

[19] Điều 80 Luật TTHC năm 2015.

[20] Khoản 13 Điều 55 Luật TTHC năm 2015.

[21] Khoản 2 Điều 61 Luật TTHC năm 2015.

[22] Điều 188, Điều 239 Luật TTHC năm 2015.

[23] Mục 3 Chương XI Luật TTHC năm 2015.

[24] Điều 74 Luật Tổ chức VKSND năm 2014.

[25] Điều 188 Luật TTHC năm 2015.

[26] Điều 191 Luật TTHC năm 2015.

[27] Điều 191 Luật TTHC năm 2015.

[28] Điều 102 Luật Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014.

Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất" - Ảnh: Phương Thảo