
Ông T có được xác nhận tình trạng độc thân hay không?
Trước ngày 3/1/1987 ông T có sống chung như vợ chồng với bà A, bà B và bà C nhưng không đăng ký kết hôn. Hiện tại bà A đã lập gia đình và có đăng ký kết hôn, bà B và bà C đã chết. Vậy ông T có được xác nhận tình trạng độc thân để kết hôn với bà X không?
Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1950, đến Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Phước B, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang xin xác nhận tình trạng độc thân để kết hôn với bà X. Ông T trình bày: Vào năm 1970 ông có chung sống với bà Phạm Thị A đến năm 1972, do bất đồng quan điểm ông chia tay bà A và sống cùng bà B. Đồng thời năm 1972 bà A cũng sống chung với ông N và có đăng ký hôn. Đến năm 1975 thì bà B chết và ông T chung sống với bà C, năm 2010 bà C chết. Năm 2022 ông T gặp bà X và muốn kết hôn với bà X nên đến Ủy ban nhân dân xã xin xác nhận tình trạng độc thân để làm thủ tục đăng ký kết hôn.
Về việc xác nhận tình trạng hôn nhân cho ông T có hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, không xác nhận tình trạng độc thân cho ông T bởi ông T và bà A hai bên chung sống với nhau như vợ chồng trước thời điểm ngày 3/1/1987 mà không đăng ký kết hôn, do vậy sẽ áp dụng quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội “Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987, ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000”. Như vậy, ông T và bà A chung sống với nhau trước ngày 3/01/1987, mặc dù chưa đăng ký kết hôn thì vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng (hôn nhân thực tế). Do ông A không có quyết định ly hôn thì Uỷ ban nhân dân xã Vĩnh Phước B xác nhận tình trạng hôn nhân cho ông T là “Hiện đang có vợ là bà Phạm Thị A”. Vì vậy, ông T phải thực hiện thủ tục ly hôn với bà A trước khi kết hôn với bà X.
Quan điểm thứ hai cho rằng, phải xác nhân tình trạng độc thân cho ông T bởi lý do theo quy định tại điểm d mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Bộ Tư pháp - TANDTC - VKSNDTC hướng dẫn: “Được coi là nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây: Một là, có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau; Hai là, việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận; Ba là, việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; Bốn là, họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình…”. Như vậy, nếu trong trường hợp qua xác minh mà ông T và bà A không thuộc 1 trong 4 trường hợp nêu trên thì xác nhận là đúng. Hơn nữa, hiện tại bà A đã có hôn nhân hợp pháp với ông N thì không nhất thiết ông T phải thực hiện thủ tục ly hôn để được xác nhận độc thân.
Rất mong nhận được ý kiến trao đổi của bạn đọc gần xa.
Tòa án Tp Cần Thơ xét xử vụ án tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản chung - Ảnh: Bích Thủy
Bài liên quan
-
Chỉ công nhận quan hệ hôn nhân thực tế đối với quan hệ chung sống như vợ chồng giữa ông A và bà B
-
Chỉ có cơ sở để xác định quan hệ hôn nhân thực tế của ông A và bà B
-
Ông A không được xác nhận hôn nhân thực tế với cả B và C
-
Ông A qua lại cùng lúc với bà B và bà C thì công nhận hôn nhân thực tế với người nào?
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Toà án nhân dân TP. Tam Kỳ tổ chức các phiên Toà rút kinh nghiệm theo hình thức trực tuyến và nhiều phiên Toà trực tuyến trong năm 2025
-
Phát động Cuộc thi báo chí: “Hải Phòng – thành phố thân thiện”
-
Về người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái quy định
-
Chuyển đổi số ngành Tòa án nhân dân năm 2025
-
Thế chấp quyền sử dụng đất là tài sản chung của hộ gia đình
Bình luận