Phòng ngừa sai phạm của Điều tra viên khi hỏi cung bị can trong điều kiện ghi âm, ghi hình có âm thanh

Trong hoạt động điều tra hình sự, công tác lấy lời khai, hỏi cung bị can đóng một vai trò cốt yếu. Bên cạnh những thành quả đã đạt được, hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra bộc lộ một số hạn chế khi vẫn còn để nhiều án oan, sai xuất phát từ những sai phạm của Điều tra viên, gây giảm sút uy tín của cơ quan bảo vệ pháp luật.

Triển khai Nghị quyết số 12-NQ/TW1 ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 14-NQ/ĐUCA2 ngày 08/11/2022 của Đảng ủy Công an trung ương, ngày 07/12/2022, Bộ Công an đã ban hành Đề án số 10/ĐA-BCA về việc xây dựng Cơ quan điều tra của Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Đề án xác định các mục tiêu về hoàn thiện pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, xây dựng các quy trình nghiệp vụ điều tra hình sự trong tổng thể xây dựng Cơ quan điều tra của Công an nhân dân.

Đặt vấn đề

Theo Quyết định số 1172/QĐ-TTg ngày 11/9/2019 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, hiện nay Bộ Công an đã và đang tích cực triển khai thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021). Theo đó, Bộ Công an đã ban hành Quyết định số 857/QĐ-BCA ngày 16/3/2016 phân công cho các đơn vị xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy định chi tiết và biện pháp thi hành các đạo luật nêu trên, phân công chủ trì xây dựng các đề án có liên quan (đề án ghi âm, ghi hình có âm thanh trong tố tụng hình sự; đề án số hóa tài liệu). Công tác lấy lời khai, hỏi cung bị can là công tác phức tạp, đòi hỏi Điều tra viên (ĐTV) phải có kiến thức tổng hợp, bên cạnh kiến thức về pháp luật, còn đòi hỏi phải nhận thức được những sai phạm và nguy cơ có thể có sai phạm, hoặc trong quá trình vận dụng các chiến thuật hỏi cung, còn có nguy cơ và xảy ra tình huống vi phạm bức cung, dụ cung, mớm cung. Từ đó, giúp ĐTV vận dụng các chiến thuật hỏi cung bị can đạt hiệu quả trong từng tình huống, hỏi cung bị can bảo đảm kết quả và chất lượng.

1. Nhận thức về các chiến thuật hỏi cung và các vi phạm khi hỏi cung bị can trong điều kiện ghi âm, ghi hình có âm thanh

Chiến thuật hỏi cung bị can là nhóm chiến thuật trong điều tra hình sự, được tiến hành trên cơ sở của pháp luật và yêu cầu điều tra để chủ động tác động trực tiếp vào tâm lý bị can, nhằm thu được từ bị can lời khai đầy đủ, đúng sự thật. Căn cứ vào tình hình, tính chất của vụ án, mức độ thông tin thu thập được, đặc điểm tâm lý bị can và thái độ khai báo của bị can mà có thể áp dụng các chiến thuật hỏi cung cụ thể. Các chiến thuật hỏi cung cụ thể gồm: hỏi tuần tự; hỏi đứt quãng; hỏi vòng quanh; hỏi củng cố từng bước; hỏi bất ngờ vào điểm yếu; cho bị can viết tự khai; hỏi thẳng; hỏi dò; hỏi sâu thêm; sử dụng tài liệu, chứng cứ trong hỏi cung; giáo dục thuyết phục; sử dụng mâu thuẫn trong hỏi cung...

Trên thực tế, những vi phạm trong hoạt động hỏi cung bị can phần lớn xuất phát bởi chính chủ thể tiến hành hỏi cung bị can. Đây là những người được Nhà nước trao cho quyền tiến hành các hoạt động điều tra vụ án hình sự (bao gồm cả hoạt động hỏi cung bị can), nên rất dễ xảy ra tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước để tiến hành hỏi cung một cách trái pháp luật. Trong quá trình hỏi cung bị can có ghi âm, ghi hình, ĐTV có thể mắc phải một số các sai phạm sau:          

Thứ nhất, đối với việc áp dụng chiến thuật sử dụng tài liệu, chứng cứ, đây là chiến thuật hỏi cung bị can rất hiệu quả, được áp dụng trong nhiều tình huống hỏi cung trong thực tiễn. Tuy nhiên, khi áp dụng chiến thuật này, ĐTV hoàn toàn  có thể rơi vào bức cung, mớm cung nếu bước qua ranh giới. Ranh giới của vấn đề này được nhận diện trong một số trường hợp, đó là:

(i) ĐTV sử dụng tài liệu, chứng cứ chưa được kiểm tra, xác minh để tác động, gợi nhớ đến bị can, dẫn đến việc mớm cung cho bị can khai theo hướng của tài liệu, chứng cứ đó.

(ii) ĐTV phân tích giá trị chứng minh của tài liệu, chứng cứ, khi sử dụng vượt quá giá trị chứng minh sự thật của tài liệu, chứng cứ và khiên cưỡng bị can phải thừa nhận sẽ dẫn đến bức cung.

(iii) ĐTV sử dụng tài liệu, chứng cứ một chiều (lời khai của bị hại hoặc lời khai của bị can khác hoặc lời khai của người làm chứng) để tác động, hướng bị can khai theo tài liệu này sẽ dẫn đến mớm cung.

(iv) ĐTV sử dụng tài liệu, chứng cứ để suy diễn nội dung, tình tiết của vụ án và hướng bị can khai theo suy diễn của ĐTV trong quá trình hỏi cung sẽ dẫn đến mớm cung.

Thứ hai, đối với chiến thuật giáo dục thuyết phục, đây là chiến thuật tác động sâu sắc vào tâm lý của bị can và cũng là chiến thuật được nhiều ĐTV ưu tiên sử dụng hàng đầu. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng chiến thuật này đặt ra ranh giới của chiến thuật với vi phạm về dụ cung khi tiến hành hỏi cung bị can. Vấn đề này được nhận diện trên cơ sở một số trường hợp: một là, khi giáo dục thuyết phục, ĐTV đưa ra những hứa hẹn mang tính lừa dối để yêu cầu bị can khai theo ý của ĐTV những nội dung tình tiết của vụ án; hai là, ĐTV khẳng định với bị can trong tình huống của bị can thì có lợi cho bị can nhất là khai theo ĐTV hướng dẫn; ba là, ĐTV hứa hẹn sẽ thay đổi biện pháp ngăn chặn, giảm nhẹ hình phạt cho bị can hoặc cho thăm gặp người thân để yêu cầu bị can khai theo hướng dẫn của mình.

Thứ ba, đối với chiến thuật sử dụng mâu thuẫn, xuất phát từ sự căng thẳng khi ĐTV vạch trần mâu thuẫn trong lời khai của bị can để tác động, vậy nên, chiến thuật này có nguy cơ dẫn đến bức cung trong thực tiễn áp dụng. Ranh giới ở những trường hợp vi phạm này được nhận diện trong các trường hợp cụ thể là: (i) ĐTV nóng vội sử dụng mâu thuẫn trong lời khai của bị can để đấu tranh, trong khi đó, mâu thuẫn xuất phát từ lỗi vô ý khai báo nhầm lẫn hoặc quên tình tiết của bị can mà không cho bị can trình bày, giải thích; (ii) ĐTV sử dụng mâu thuẫn để truy vặn bị can, dồn ép bị can không cho trình bày, từ đó, khẳng định vấn đề mâu thuẫn theo ý kiến của ĐTV. Trường hợp ĐTV khi vạch ra mâu thuẫn kèm theo sử dụng hành động (đập bàn, quát mắng) và lời nói thể hiện việc hăm dọa, chửi bới để hướng bị can khai theo ý ĐTV.

Thứ tư, đối với chiến thuật cho bị can viết tự khai, đây là chiến thuật hỏi cung áp dụng trong thực tiễn tương đối an toàn. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, đối với chiến thuật này, vẫn có thể phát sinh vi phạm mớm cung, nếu ĐTV không nhận thức được ranh giới rõ ràng. Tình huống mớm cung có thể xảy ra với trường hợp bị can không biết cách viết bản tự khai hoặc ĐTV nôn nóng yêu cầu bị can viết bản tự khai. Trong tình huống này, phát sinh việc ĐTV cần thiết hướng dẫn bị can tự khai. Song, đây chính là ranh giới của chiến thuật với vi phạm mớm cung. Nhận diện vi phạm mớm cung trong trường hợp này xảy ra là, khi ĐTV không dừng lại ở việc chỉ hướng dẫn bị can khai báo mang tính chất chung theo trình tự sự việc hoặc thời gian, mà đã cố tình hướng dẫn bị can khai báo chi tiết từng tình tiết của vụ án theo ý ĐTV, thậm chí, đọc cho bị can chép.

Thứ năm, đối với chiến thuật hỏi thẳng, là chiến thuật hỗ trợ ĐTV làm rõ trực tiếp những vấn đề cần khai thác ở bị can trong hỏi cung; nhiều trường hợp, ĐTV sử dụng hỏi thẳng để chốt chặt vấn đề trong lời khai của bị can, nhằm củng cố hồ sơ vụ án. Thực tiễn cũng cho thấy, khi thực hiện việc hỏi thẳng, có thể dẫn tới nguy cơ mớm cung, nếu ĐTV không cẩn trọng. Nhận diện vấn đề này sẽ xảy ra một trong hai tình huống có thể dẫn đến vi phạm, đó là: tình huống ĐTV đưa ra câu hỏi có tính chất quá chi tiết để củng cố vụ án theo hướng cho bị can lựa chọn phương án trả lời là đúng hay sai, phải hay không phải, có hay không… trong khi vấn đề đưa ra để hỏi chưa được bị can trình bày hoặc chưa có tài liệu, chứng cứ trong vụ án khẳng định tính chính xác. Chẳng hạn, ĐTV hỏi “Hỏi: Bị can cho biết có phải bị can sử dụng dao để chém vào đầu khiến nạn nhân tử vong hay không?”. Với câu hỏi này, nếu trước khi đưa ra, bị can đã trình bày về vũ khí sử dụng để gây án là con dao và vị trí tấn công nạn nhân là vùng đầu, khiến nạn nhân chết, thì sẽ là câu hỏi thẳng để chốt vấn đề trong lời khai, trong hồ sơ hoặc nếu đã có tài liệu, chứng cứ khác (lời khai của người làm chứng, hình ảnh camera ở hiện trường, kết luận giám định…) khẳng định diễn biến vụ án như trên, thì câu hỏi thẳng này không vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, nếu chưa có cơ sở, căn cứ về bản chất của vụ án, hung khí gây án, thì việc ĐTV sử dụng câu hỏi đó sẽ là câu hỏi mớm cung.

Thứ sáu, đối với chiến thuật hỏi dò, thực tiễn thường được các ĐTV áp dụng đối với những vấn đề chưa rõ, chưa có căn cứ xác thực để kết luận là đúng sự thật hay không, có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội hay không, hoặc những việc tuy còn nằm trong suy luận, phán đoán của ĐTV, nhưng là những vấn đề cần thiết phải được làm rõ. Đối với chiến thuật này, khi áp dụng có nguy cơ dẫn đến vi phạm mớm cung, đòi hỏi ĐTV phải nhận diện rõ. Việc vi phạm mớm cung có thể phát sinh khi áp dụng chiến thuật hỏi dò, đó là: (i) Giả thuyết điều tra mà ĐTV xây dựng liên quan đến tình tiết của vụ án cần hỏi dò sai, không có căn cứ, sẽ dẫn đến quá trình hỏi dò theo nội hàm của giả thuyết bị lệch hướng, rơi vào mớm cung; (ii) Khi hỏi, ĐTV lồng vào ý kiến chủ quan của bản thân để hỏi rộng ra các tình tiết khác, trong khi đó, tình tiết hỏi mở rộng không có liên quan đến những tình tiết trước đó bị can trình bày sẽ dẫn đến mớm cung.

Thứ bảy, đối với chiến thuật hỏi sâu thêm, đây là chiến thuật được áp dụng giúp ĐTV làm rõ những nội dung, tình tiết mà bị can đã khai, nhưng chưa rõ ràng, đầy đủ hoặc những nội dung bị can khai, nhưng ĐTV còn nghi ngờ tính xác thực. Khi áp dụng chiến thuật hỏi sâu thêm, thực tiễn có thể phát sinh 02 tình huống gây ra nguy cơ ĐTV mớm cung, đó là: tình huống thứ nhất, khi áp dụng chiến thuật hỏi sâu thêm, ĐTV không dựa vào vấn đề chính mà bị can trả lời; tình huống thứ hai, ĐTV hỏi sâu thêm về vấn đề không có liên hệ trực tiếp đến vấn đề chính bị can đã trả lời. Khi đó, nội dung hỏi sâu thêm này, nếu không có căn cứ sẽ dẫn đến mớm cung.

Như vậy, việc áp dụng các chiến thuật hỏi cung bị can cụ thể với các vi phạm trong hỏi cung bị can có ghi âm, ghi hình trong thực tiễn rất đa dạng. Vì thế, khi áp dụng các chiến thuật hỏi cung bị can cụ thể, các ĐTV phải nhận diện rõ các tình huống vi phạm, nhằm nâng cao chất lượng công tác đấu tranh, đấu trí, đấu lý với bị can.

2. Nguyên nhân của các vi phạm khi hỏi cung bị can trong điều kiện ghi âm, ghi hình có âm thanh

Thứ nhất, xuất phát từ nhận thức về quy định pháp luật của ĐTV.

Hiện tượng bức cung, nhục hình xuất phát từ tư duy, nhận thức coi người bị buộc tội không bình đẳng với ĐTV, không tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cùng với đó là thái độ coi thường tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác, dẫn đến việc coi họ là người có tội, nên chỉ tập trung thu thập chứng cứ, đặc biệt là lời khai theo hướng “buộc tội” mà không thu thập chứng cứ theo hướng “gỡ tội”, dẫn đến việc vi phạm nguyên tắc “suy đoán vô tội”.

Thứ hai, do hành vi bức cung, nhục hình khó phát hiện và khó chứng minh.

Thực tiễn cho thấy, hành vi bức cung, nhục hình thường khó phát hiện và khó chứng minh. Bởi, không phải mọi trường hợp hoạt động lấy lời khai, hỏi cung bị can đều có sự tham gia, giám sát của Kiểm sát viên, người bào chữa và thực hiện đầy đủ thủ tục ghi âm, ghi hình. Đặc biệt, khi tiến hành hoạt động lấy lời khai ở giai đoạn tiền khởi tố như: bắt, tạm giữ, giữ người trong trường hợp khẩn cấp - đây là thời điểm rất nhạy cảm, rất dễ xảy ra hiện tượng bức cung, nhục hình. Trong giai đoạn này, hoạt động lấy lời khai phần lớn chỉ có sự tham gia của ĐTV, cán bộ điều tra và người bị buộc tội, do đó, nếu ĐTV sử dụng thủ đoạn tinh vi, thì việc phát hiện dấu vết, thương tích trên cơ thể người bị buộc tội sẽ rất khó khăn. Ngoài ra, do quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo chỉ thu thập được duy nhất lời khai của người bị nhục hình; không thu được dấu vết, thương tích; trong biên bản lấy lời khai, biên bản xem xét dấu vết trên thân thể đều xác nhận nội dung “quá trình làm việc không bị đánh đập, ép cung”, bởi vậy gây khó khăn trong việc kết luận hành vi bức cung, nhục hình. Từ đó, có quan điểm cho rằng, việc dùng nhục hình chỉ bị phát hiện khi người bị buộc tội bị chết hoặc bị oan. Điển hình như, vụ 05 cán bộ Công an thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên dùng nhục hình trong quá trình lấy lời khai làm chết đối tượng Ngô Thanh Kiều3.

Thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát hành vi bức cung, nhục hình chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Hoạt động kiểm tra, giám sát được thực hiện thông qua nhiều biện pháp khác nhau như: ghi âm, ghi hình; qua giám sát của Viện kiểm sát (VKS) và người bào chữa. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải tất cả các buổi lấy lời khai, hỏi cung bị can đều được kiểm tra, giám sát thông qua các biện pháp trên. Đặc biệt là hoạt động lấy lời khai ban đầu của đối tượng nghi vấn; người bị bắt; người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Qua nghiên cứu cho thấy, các hoạt động này tồn tại một số hạn chế như sau:

+ Hoạt động ghi âm, ghi hình: Theo quy định về việc lấy lời khai, hỏi cung bị can được tiến hành tại cơ sở giam giữ hoặc tại nơi tiến hành điều tra, phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Đồng thời, tháng 9/2019, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án cơ sở vật chất và lộ trình cụ thể, theo đó, kể từ ngày 01/01/2020, phải thực hiện thống nhất ghi âm, ghi hình trên toàn quốc. Tuy nhiên, do điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị còn hạn chế, nên việc ghi âm, ghi hình trong lấy lời khai, hỏi cung bị can chưa thực hiện được trong tất cả các buổi lấy lời khai, hỏi cung bị can. Hoạt động ghi âm, ghi hình mới chỉ thực hiện đối với các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, các vụ án phức tạp nhiều đối tượng, các đối tượng khai báo quanh co, thay đổi lời khai.

+ Vai trò của Kiểm sát viên (KSV): VKS có chức năng kiểm sát hoạt động điều tra, kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, không phải mọi buổi lấy lời khai, hỏi cung bị can đều có sự tham gia của KSV, nhất là đối với hoạt động lấy lời khai ban đầu của người phạm tội quả tang; người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Bởi, hồ sơ vụ án đang trong thời gian thiết lập, chưa chuyển sang VKS, do đó, VKS sẽ gặp khó khăn nhất định trong việc phân công KSV kiểm sát hoạt động này.

+ Người bào chữa: Theo quy định, người bị buộc tội có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. So với quy định của BLTTHS năm 2003, thì BLTTHS năm 2015 đã khắc phục được những hạn chế trong việc bào chữa, đó là: người bào chữa không phải đợi thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa, mà được tham gia ngay khi có đề nghị bào chữa và chỉ cần đăng ký với Cơ quan điều tra (CQĐT). Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 74 BLTTHS năm 2015: “Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra […] hoặc từ khi có quyết định tạm giữ”. Do đó, vẫn tiềm ẩn những vi phạm nếu hoạt động lấy lời khai được tiến hành tại địa điểm khác, hoặc trước khi ra quyết định tạm giữ hình sự. Ngoài ra, không phải tất cả người bị buộc tội đều có điều kiện thuê người bào chữa, dẫn đến việc lấy lời khai, hỏi cung bị can chỉ có sự tham gia của ĐTV và người bị buộc tội.

Thứ tư, trình độ, kinh nghiệm, năng lực chuyên môn, tư cách đạo đức của ĐTV, Cán bộ điều tra.

Đây là yếu tố then chốt và là nguyên nhân quan trọng nhất tác động đến hiện tượng bức cung, nhục hình trong lấy lời khai, hỏi cung bị can. Một số ĐTV có trình độ, năng lực hạn chế; kém về phẩm chất; ý thức chấp hành pháp luật chưa tốt; đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm của người thực thi pháp luật chưa cao, dẫn đến không tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Mặt khác, khi tiến hành hoạt động lấy lời khai, hỏi cung bị can, phần lớn các đối tượng chối tội, không thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân, nhất là các đối tượng am hiểu về pháp luật, lưu manh, chuyên nghiệp, có tiền án, tiền sự. Ngoài ra, khi lấy lời khai, hỏi cung bị can, một số ĐTV chưa biết cách vận dụng hiệu quả các chiến thuật, dẫn đến việc ĐTV thực hiện các hành vi bức cung, nhục hình để ép buộc người bị buộc tội khai báo. Ngoài ra, trong đội ngũ ĐTV, Cán bộ điều tra vẫn còn có cán bộ, chiến sỹ có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, chạy theo lối sống thực dụng, bất chấp việc vi phạm pháp luật, vi phạm quyền công dân, dẫn đến việc bức cung, nhục hình.

3. Giải pháp phòng ngừa sai phạm của Điều tra viên khi hỏi cung bị can trong điều kiện ghi âm, ghi hình có âm thanh

Việc áp dụng các chiến thuật hỏi cung bị can cụ thể là yêu cầu cần thiết để bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác hỏi cung, góp phần nâng cao chất lượng điều tra vụ án hình sự của ĐTV, lực lượng Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, nếu ĐTV không nhận thức rõ những ranh giới giữa việc áp dụng các chiến thuật này với vi phạm bức cung, dụ cung, mớm cung, sẽ  không chỉ ảnh hưởng đến kết quả điều tra mà còn có nguy cơ xảy ra oan, sai, cũng như vi phạm pháp luật hình sự. Để phòng ngừa những trường hợp có thể phát sinh vi phạm bức cung, dụ cung, mớm cung khi áp dụng các chiến thuật hỏi cung bị can, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện lý luận về chiến thuật hỏi cung bị can.

Lý luận về chiến thuật hỏi cung bị can đã được tổng kết, đúc rút qua các giai đoạn phát triển của CQĐT và sự hoàn thiện, bổ sung quy định của BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, lý luận chiến thuật hỏi cung bị can còn chưa được tổng kết đào tạo nâng cao cho các ĐTV, còn có nhiều nội dung hạn chế chưa được đúc kết, những vấn đề chỉ dẫn khi áp dụng chiến thuật trong một số trường hợp còn chung chung, chưa cụ thể, nhất là đối với những trường hợp có thể vi phạm về bức cung, mớm cung, dụ cung khi tiến hành vận dụng các chiến thuật hỏi cung bị can. Vì thế, để phòng ngừa và hạn chế những vi phạm này trong việc vận dụng các chiến thuật hỏi cung bị can cụ thể, cần phải nghiên cứu, hoàn thiện lý luận về chiến thuật hỏi cung bị can theo hướng: mô tả và làm rõ thêm nội dung của chiến thuật hỏi cung bị can cụ thể, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi có sự thay đổi quy định của BLTTHS năm 2015 và điều kiện hỏi cung bị can áp dụng việc ghi âm, ghi hình có âm thanh; cụ thể hóa các trường hợp vượt qua ranh giới, làm phát sinh vi phạm về bức cung, mớm cung hay dụ cung khi áp dụng các chiến thuật hỏi cung bị can; nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện thêm những chú ý khi áp dụng các chiến thuật hỏi cung bị can cụ thể gắn với từng tình huống thực tiễn hỏi cung bị can.

Hai là, nâng cao nhận thức của ĐTV về các chiến thuật hỏi cung bị can.

Để phòng ngừa, hạn chế vi phạm bức cung, dụ cung hay mớm cung, thì năng lực của ĐTV trong tổ chức tiến hành hỏi cung bị can và kiến thức của ĐTV về các chiến thuật hỏi cung cụ thể là yếu tố quan trọng, quyết định trực tiếp. Vì thế, việc nâng cao nhận thức của ĐTV về các chiến thuật hỏi cung bị can cụ thể là yêu cầu cấp thiết. Theo đó, cần thiết phải nâng cao nhận thức của ĐTV về các chiến thuật hỏi cung bị can trên một số khía cạnh, đó là: trang bị cho ĐTV hiểu biết về tất cả các chiến thuật hỏi cung bị can có thể được vận dụng, sử dụng và trường hợp sử dụng, điều kiện khi sử dụng, cách tiến hành; đặc biệt, trang bị cho ĐTV những vấn đề cần chú ý khi áp dụng các chiến thuật hỏi cung bị can cụ thể trong các tình huống hỏi cung trong thực tiễn.

Ba là, ĐTV nắm chắc ranh giới giữa việc áp dụng các chiến thuật hỏi cung với các vi phạm bức cung, dụ cung, mớm cung.

Đây là vấn đề quan trọng để phòng ngừa vi phạm bức cung, mớm cung, dụ cung khi vận dụng các chiến thuật hỏi cung bị can cụ thể. Vì thế, ĐTV phải am hiểu, nắm chắc một số chú ý trong những tình huống như tác giả đã phân tích để nhận diện ranh giới của áp dụng chiến thuật hỏi cung bị can với vi phạm bức cung, mớm cung, dụ cung. Những vấn đề chú ý về nhận diện ranh giới này cũng cần thiết phải được phổ biến đến toàn thể ĐTV của lực lượng Cảnh sát điều tra.

Bốn là, thực hiện nghiêm túc việc lập kế hoạch hỏi cung bị can và phê duyệt kế hoạch hỏi cung bị can.

Một trong những vấn đề quan trọng để bảo đảm tính chủ động, hạn chế sai sót của ĐTV khi tiến hành hỏi cung bị can, đó là việc lập kế hoạch hỏi cung bị can trong giai đoạn chuẩn bị. Vì thế, ĐTV phải nghiêm túc trong việc lập kế hoạch hỏi cung bị can đối với mỗi buổi hỏi cung. Nhất là trong nội dung của bản kế hoạch hỏi cung bị can cần phải thể hiện rõ chiến thuật hỏi cung bị can mà ĐTV dự trù sử dụng, những vấn đề chú ý và điều kiện xoay quanh việc sử dụng chiến thuật hỏi cung dự trù đó. Đồng thời, với việc lập kế hoạch hỏi cung bị can, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT cũng cần phải nghiêm túc trong việc phê duyệt kế hoạch hỏi cung bị can, trong đó, chú ý đánh giá việc ĐTV dự kiến chiến thuật hỏi cung được áp dụng. Trên cơ sở đó, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT kịp thời phát hiện những vấn đề chưa đạt, chưa bảo đảm yêu cầu, vi phạm pháp luật trong việc dự trù chiến thuật hỏi cung được áp dụng của ĐTV để chấn chỉnh, điều chỉnh kịp thời.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra nhằm phát hiện những vi phạm, sai phạm khi áp dụng các chiến thuật hỏi cung bị can để chấn chỉnh, xử lý, giải quyết kịp thời.

Song song với việc phê duyệt kế hoạch hỏi cung bị can, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT cũng cần thiết phải thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra kết quả hỏi cung, kiểm tra quá trình hỏi cung (thông qua việc khai thác dữ liệu ghi âm, ghi hình có âm thanh) để phát hiện những sai sót, vi phạm về bức cung, mớm cung, dụ cung của các ĐTV đã thực hiện. Trên cơ sở đó, có sự tổng hợp, phê bình, đánh giá và chỉ dẫn, nhằm hỗ trợ các ĐTV không tiếp tục mắc phải những vi phạm đó trong công tác vận dụng chiến thuật hỏi cung trong hoạt động điều tra các vụ án tiếp theo, cũng như những buổi hỏi cung tiến hành tiếp theo.

Sáu là, đẩy mạnh việc tổng kết thực tiễn về việc áp dụng các chiến thuật hỏi cung bị can cụ thể.

Đây là giải pháp có tính chiến lược, lâu dài, nhằm hỗ trợ cho CQĐT trong việc đào tạo, bồi dưỡng ĐTV, cũng như trong việc vận dụng các chiến thuật hỏi cung bị can. Theo đó, quá trình tổng kết về thực tiễn áp dụng chiến thuật hỏi cung bị can phải được các CQĐT tiến hành thường xuyên. Trong quá trình tổng kết, các CQĐT phải đưa ra những bài học kinh nghiệm về kết quả đã đạt được, những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng chiến thuật hỏi cung, những vi phạm, sai sót đã phát sinh khi áp dụng chiến thuật hỏi cung bị can; những chiến thuật hỏi cung bị can thường được áp dụng, tình huống áp dụng. Đồng thời, trên cơ sở tổng kết này, các CQĐT phát hiện ra những chiến thuật mới có hiệu quả đã được các ĐTV vận dụng trong thực tiễn. Kết quả tổng kết phải được phổ biến đến toàn thể ĐTV của CQĐT, nhằm tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực của ĐTV khi vận dụng chiến thuật hỏi cung bị can. Trên cơ sở đó, ĐTV sẽ chủ động phòng ngừa, tránh được những vi phạm bức cung, dụ cung, mớm cung khi vận dụng các chiến thuật hỏi cung bị can.

Bảy là, chú trọng hoạt động tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và phân công ĐTV, Cán bộ điều tra.

Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐTV, cần làm tốt công tác tuyển chọn đầu vào, quá trình đào tạo bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và pháp luật, cần chú trọng bồi dưỡng phẩm chất chính trị; tác phong, kỷ luật; tinh thần trách nhiệm; ý thức chấp hành pháp luật và đặc biệt là đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ ĐTV. Đồng thời, cần tiến hành rà soát, sắp xếp đội ngũ ĐTV, nếu không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, thì luân chuyển sang vị trí công tác khác phù hợp với trình độ, chuyên môn. Bên cạnh đó, cần xem xét đến yếu tố: khí chất, tính cách, trình độ năng lực của ĐTV để phân công giải quyết các vụ án cho phù hợp. Không nên lựa chọn, phân công ĐTV có khí chất, tính tình không ổn định điều tra vụ án phức tạp, bởi khi sắp hết thời hạn điều tra, nếu việc hỏi cung chưa mang lại kết quả, thì có thể ĐTV sẽ dùng nhục hình buộc bị can phải khai nhận.

Tám là, tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật trong hỏi cung bị can.

Tăng cường vai trò của VKS khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tất cả các giai đoạn điều tra, nhất là trong hoạt động lấy lời khai ban đầu của đối tượng nghi vấn; người phạm tội quả tang, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bởi đây là thời điểm nhạy cảm, dễ xảy ra hiện tượng bức cung, nhục hình. Vì vậy, để ngăn chặn hiện tượng bức cung, nhục hình, trong giai đoạn này, VKS cần xây dựng quy chế phối hợp với CQĐT, qua đó, phân công KSV kiểm sát việc lấy lời khai ngay từ giai đoạn lấy lời khai người phạm tội quả tang, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp tại CQĐT. Trường hợp bị can chối tội, khiếu nại về việc bị bức cung, nhục hình, thì VKS phải trực tiếp hỏi cung để làm rõ. Đồng thời, phát huy vai trò của người bào chữa trong quá trình lấy lời khai, kịp thời phát hiện, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xác minh, làm rõ các hành vi bức cung, nhục hình. Ngoài ra, người bào chữa cần tham gia đầy đủ tất cả các buổi lấy lời khai, hỏi cung bị can, nhằm mục đích ngăn chặn các hành vi này.

Chín là, thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định của pháp luật về ghi âm, ghi hình trong hoạt động hỏi cung bị can.

Ghi âm, ghi hình là quy định tiến bộ, giúp hoạt động lấy lời khai, hỏi cung bị can được thực hiện một cách công khai, minh bạch, giúp hạn chế được các hành vi bức cung, nhục hình. Tuy nhiên, để hoạt động ghi âm, ghi hình được tiến hành trong tất cả các buổi lấy lời khai, hỏi cung bị can, trước hết, phải trang bị đầy đủ các thiết bị ghi âm, ghi hình ở tất cả các địa điểm tiến hành hoạt động này, nhất là tại các cơ sở giam giữ, CQĐT và tại trụ sở công an xã, phường, thị trấn. Đồng thời, phải có quy trình cụ thể, thống nhất khi tiến hành hoạt động ghi âm, ghi hình cũng như chú trọng việc đào tạo, bố trí cán bộ chuyên môn tiến hành hoạt động ghi âm, ghi hình. Ngoài ra, cần tập trung công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra hoạt động ghi âm, ghi hình có âm thanh để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những vi phạm khi tiến hành hoạt động lấy lời khai, hỏi cung bị can.

Mười là, tăng cường kiểm tra trong công tác giam giữ, tạm giam.

Để hạn chế, ngăn chặn hành vi bức cung, nhục hình tại các cơ sở giam giữ, cán bộ quản giáo cần phát huy vai trò giám sát trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung bị can. Nếu làm tốt hoạt động này, ĐTV sẽ không có điều kiện thực hiện các hành vi bức cung, nhục hình. Khi nhận bàn giao người bị giam giữ sau khi lấy lời khai, cán bộ tiếp nhận phải kiểm tra một cách nghiêm túc, kịp thời phát hiện dấu vết, thương tích bất thường trên cơ thể người bị giam giữ. Ngoài ra, cần kịp thời ghi nhận những khiếu nại, tố cáo liên quan đến hành vi bức cung, nhục hình đến các cơ quan có thẩm quyền để có biện pháp kiểm tra, xử lý ngay đối với các hành vi này.

Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp cần sát sao trong việc chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn đối với các vụ án phức tạp, nhằm kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, khắc phục những vi phạm trong việc tiến hành các hoạt động điều tra nói chung và khi lấy lời khai, hỏi cung bị can nói riêng; kiên quyết điều chuyển khỏi CQĐT những cá nhân vi phạm nghiêm trọng khi tiến hành các hoạt động điều tra. Ngoài ra, cần xử lý trách nhiệm liên đới của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT nếu để xảy ra bức cung, nhục hình khi lấy lời khai, hỏi cung bị can.

Tăng cường kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ điều tra của CQĐT cấp trên đối với CQĐT cấp dưới trong giải quyết các vụ án, nhất là các vụ án phức tạp, được sự quan tâm của dư luận. Bởi, các vụ án dùng nhục hình thời gian vừa qua cho thấy, việc không thực hiện đúng quy định của pháp luật và hạn chế về mặt nghiệp vụ là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc ĐTV bức cung, nhục hình thay cho các biện pháp nghiệp vụ khác. Do đó, việc kiểm tra, hướng dẫn của CQĐT cấp trên có thể giúp hoạt động điều tra vụ án được đúng hướng và hiệu quả.

Kết luận

Hỏi cung bị can là một hoạt động đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, hoạt động hỏi cung bị can là một hoạt động khá phức tạp và nhạy cảm. Do đó, quá trình hỏi cung bị can đã gặp phải những khó khăn, vướng mắc nhất định, đó là một trong những nguyên nhân chính gây nên những vi phạm trong quá trình tiến hành hỏi cung bị can. Để hỏi cung mang lại hiệu quả, thu được chứng cứ có giá trị chứng minh cao, thì ngoài việc hoạt động này phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, còn cần phải có sự kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị can trong quá trình hỏi cung.

Nguồn Tạp chí TAND số 19 năm 2024.
 

TS. NGUYỄN VĂN SÁNG (Thiếu tá, Khoa Nghiệp vụ điều tra hình sự - Học viện Cảnh sát nhân dân)

Tài liệu tham khảo

1. Báo cáo gửi Quốc hội về công tác của ngành Kiểm sát từ ngày 01/10/2023 đến ngày 31/3/2024;

2. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

3. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021);

4. Quyết định số 10312/QĐ-BCA-C01 ngày 16/12/2021 của Bộ trưởng Bộ Công an về việc ban hành Quy trình “thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trong lực lượng Công an nhân dân”;

5. Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/02/2018 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm, ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

6. Tuyên án các bị cáo nguyên cán bộ công an dùng nhục hình làm chết nghi phạm ở Phú Yên, https://nhandan.vn/tuyen-an-cac-bi-cao-nguyen-can-bo-cong-an-dung-nhuc-hinh-lam-chet-nghi-pham-o-phu-yen-post229979.html, truy cập ngày 30/8/2024.


1 Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

2 Nghị quyết số 14-NQ/ĐUCA ngày 08/11/2022 của Đảng ủy Công an Trung ương về tiếp tục xây dựng Cơ quan điều tra của Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

3 Tuyên án các bị cáo nguyên cán bộ công an dùng nhục hình làm chết nghi phạm ở Phú Yên, https://nhandan.vn/tuyen-an-cac-bi-cao-nguyen-can-bo-cong-an-dung-nhuc-hinh-lam-chet-nghi-pham-o-phu-yen-post229979.html, truy cập ngày 30/8/2024.

Viện kiểm sát phối hợp với Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Kỳ hỏi cung bị can có ghi âm, ghi hình có âm thanh. - Ảnh: Quang Hoàng.