Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quổc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, Kỳ họp lần thứ 9 thông qua ngày 24 tháng 6 năm 2025 và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2025.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được thông qua với số biếu quyết tán thành là 409/412 , chiếm 85,56% tổng số đại biểu với nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hiện nay (sau đây gọi tắt  là Luật).

Luật bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân. Đây là một trong những nội dung mới được bổ sung vào điểm c khoản 3 Điều 4 của Luật. Theo đó, khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn:

 “c) Xử lý vi phạm; xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm;”

Về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam, Luật sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 23 như sau:

“3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân khu vực, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi trái pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam của cơ quan, người có thẩm quyền thuộc trách nhiệm kiểm sát của mình.
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với việc giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới; quyết định giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên là quyết định có hiệu lực pháp luật.”.

Về hệ thống của Viện kiểm sát nhân dân, Luật quy định gồm:

1. Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

2. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố (sau đây gọi là Viện kiếm sát nhân dân cấp tỉnh).

3. Viện kiểm sát nhân dân khu vực.

. Viện kiểm sát quân sự các cấp.

Về bổ nhiệm Kiểm sát viên vào ngạch cao hơn phải bảo đảm các nguyên tắc:

a) Thực hiện thông qua quy trình xét chọn; bảo đảm tiêu chuẩn bổ nhiệm của từng ngạch Kiểm sát viên; căn cứ vào số lượng Kiểm sát viên, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiếm sát viên tại mỗi cấp Viện kiểm sát được giao và các quy định khác của Luật này;

b) Bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan;

c) Không được xét bổ nhiệm Kiểm sát viên vào ngạch cao hơn đối với trường hợp đang trong thời hạn bị xử lý kỷ luật, trong thời gian bị khởi tổ, điều tra, truy tố, xét xử, trong thời gian thực hiện các quy định liên quan đến kỷ luật theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Về bổ nhiệm Kiểm sát viên trong trường hợp đặc biệt

Luật sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 81 với nội dung cụ thể: "Trong trường hợp đặc biệt, người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều động đến để làm lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp, tuy chưa đủ thời gian làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp hoặc chưa đủ thời gian làm công tác pháp luật, nhưng có đủ các tiêu chuẩn quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 75 và điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 77, điểm b và điểm c khoản 1 của các điều 78, 79 và 80 của Luật này thì cũng có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.”.

.

HOÀI NGÂN

Ảnh: nguonf Internet