.jpg)
Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và góp ý hoàn thiện, bảo đảm tuân thủ pháp chế trong tố tụng hình sự
Trong bài viết, tác giả bàn về quy định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và đưa ra góp ý nhằm hoàn thiện quy định, nâng cao hiệu quả tuân thủ pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.
1. Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một thủ tục trong quá trình tố tụng hình sự thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát trong gia đoạn truy tố, Tòa án trong giai đoạn xét xử (Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử) và được thực hiện bằng hình thức ban hành Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung được quy định trực tiếp tại Điều 245, Điều 280 và một phần được quy định tại Điều 174 BLTTHS. Theo đó, Điều 245 quy định về căn cứ và thủ tục trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung thuộc thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong giai đoạn truy tố; Điều 280 quy định về căn cứ và thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung thuộc thẩm quyền của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa trong thời hạn chuẩn bị xét xử.
Trong BLTTHS không có điều luật riêng quy định về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục trả hồ sơ điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử (HĐXX) mà được quy định chung tại khoản 3, khoản 6 Điều 326 về nghị án.
Theo đó, trong quá trình nghị án nếu có căn cứ xác định vụ án thuộc trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung thì HĐXX quyết định trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Căn cứ để HĐXX quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng chính là các căn cứ để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung được quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS, bao gồm: (a) Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; (b) Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm; (c) Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; (d) Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
Theo nội dung quy định tại Điều 326 BLTTHS thì HĐXX chỉ được quyền ban hành quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung sau khi đã nghị án.
Đồng thời, để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời, tránh trường hợp tùy tiện trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần thì tại khoản 2 Điều 174 BLTTHS có quy định giới hạn về số lần được phép trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Cụ thể, Viện kiểm sát chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hai lần, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và HĐXX chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần.
Xét nội dung các trường hợp được quy định làm căn cứ để Viện kiểm sát, Thẩm phán chủ tọa phiên hòa hoặc HĐXX quyết định trả hồ sơ bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 245 và khoản 1 Điều 280 và giới hạn số lần được phép trả hồ sơ bổ sung tại khoản 2 Điều 174 BLTTHS thì thấy rằng, quy định trả hồ sơ để điều tra bổ sung được thiết kế nhằm mục đích đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự được thực hiện toàn diện, khách quan, kịp thời và tuân thủ pháp luật.
2. Vấn đề đặt ra và đề xuất, kiến nghị
2.1. Về kỹ thuật lập pháp
Như đã trình bày trên đây, quy định về căn cứ, thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát được quy định tại Điều 245 (Chương XIX Quyết định việc truy tố), của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa được quy định tại Điều 280 (Mục II Chuẩn bị xét xử thuộc Chương XXI Xét xử sơ thẩm) và của HĐXX được quy định tại Điều 326 (Mục VI Nghị án và tuyên án thuộc Chương XXI Xét xử sơ thẩm).
Tuy nhiên, quy định giới hạn số lần được quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung lại được quy định trong một phần của khoản 2 Điều 174 về “Thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại”, thuộc Chương X “Những quy định chung về điều tra vụ án hình sự” là chưa phù hợp.
Quy định giới hạn số lần mà các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng được quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung là để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, chặt chẽ về mặt thẩm quyền, tránh sự tùy tiện chứ không phải là quy định thuộc nghiệp vụ chuyên môn điều tra và hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung chỉ được thực hiện khi hoạt động điều tra đã kết thúc.
Vì vậy, tác giả cho rằng, khi sửa đổi BLTTHS, quy định về giới hạn số lần được trả hồ sơ để điều tra bổ sung đang được thiết kế quy định tại khoản 2 Điều 174 BLTTHS hiện hành cần được tách riêng và bố trí lại vào các điều luật quy định về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện Kiểm sát, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và HĐXX để đảm bảo tính logic, khoa học trong việc bố trí và thiết kế quy định của BLTTHS.
2.2. Về thực tiễn áp dụng quy định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử vụ án
Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong BLTTHS được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP).
Tuy nhiên, từ thực tiễn tham gia tố tụng của tác giả cho thấy, mặc dù BLTTHS đã quy định rõ về giới hạn số lần Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và HĐXX được trả hồ sơ để điều tra bổ sung và đã được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP nhưng thực tiễn thi hành vẫn còn cách hiểu, nhận thức khác nhau và còn tình trạng không tuân thủ giới hạn luật định, trả hồ sơ vượt quá số lần quy định khiến quá trình giải quyết vụ án bị kéo dài.
Thực trạng này xuất phát từ nhận thức, lý giải khác nhau về căn cứ, ý nghĩa của quy định trả hồ sơ điều tra bổ sung của các chủ thể tiến hành tố tụng.
- Thứ nhất: Nhận thức về căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 280 BLTTHS trong thời hạn chuẩn bị xét xử.
Khoản 2 Điều 280 BLTTHS quy định “Trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ”.
Có quan điểm cho rằng, vì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ nên đây không thuộc trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chủ động ban hành quyết định trả hồ sơ và được xác định là một căn cứ độc lập (căn cứ Viện kiểm sát đề nghị trả hồ sơ) và không xác định là 01 lần Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã trả hồ sơ nên Thẩm phán chủ tọa vẫn còn thẩm quyền chủ động trả hồ sơ 01 lần khi có căn cứ tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS.
Tuy nhiên, xét cách trình bày tại Điều 280 BLTTHS thì thấy rằng, tại khoản 2 quy định “Trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ” và nội dung hướng dẫn tại khoản 1 Điều 13 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP thì phải hiểu rằng căn cứ mà Viện kiểm sát phát hiện ở đây vẫn phải là một trong những trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS.
Cần thống nhất nhận thức rằng, đang trong thời hạn chuẩn bị xét xử nên mặc dù Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ nhưng thẩm quyền ban hành quyết định trả hồ sơ trong trường hợp này vẫn thuộc về Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
Vì vậy, văn bản của Viện Kiểm sát nghị Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung trong thời hạn chuẩn bị xét xử không phải căn cứ độc lập và quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa trong trường hợp này phải được tính vào giới hạn chung quy định tại khoản 2 Điều 174.
- Thứ hai: Nhận thức về trường hợp Kiểm sát viên đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa.
Trong thực tiễn xét xử, có một số trường hợp như sau:
Trường hợp 1: Tại phiên tòa, sau khi kết thúc phần thủ tục, Kiểm sát viên cung cấp văn bản của Viện kiểm sát và đề nghị Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung, trường hợp này có HĐXX sau khi thảo luận thì ban hành Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát theo quy định tại khoản 2 Điều 280 của BLTTHS năm 2015.
Trường hợp 2: Tại phiên tòa, sau khi kết thúc phần thủ tục, Kiểm sát viên cung cấp văn bản của Viện kiểm sát và đề nghị Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung, trường hợp này có toà án tiếp tục tranh tụng tại phiên toà, nếu kiểm tra chứng cứ vụ án có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 280 thì kết hợp với yêu cầu trả hồ sơ điều tra bổ sung của Kiểm sát viên, HĐXX ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”([1]).
Trường hợp 3: Tại phiên tòa, sau khi kết thúc phần xét hỏi, trong phần tranh tụng Kiểm sát viên phát biểu quan điểm đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì trong phần xét hỏi phát hiện căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS. Trường hợp này, sau khi nghị án HĐXX ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trong các mục IV về “Thủ tục bắt đầu phiên tòa”, Mục V về “Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” thuộc Chương XXI về “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS không có quy định về việc Viện kiểm sát có văn bản đề nghị hoặc Kiểm sát viên đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung, mà chỉ có quy định về việc sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày luận tội; nếu thấy có căn cứ thì có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết tội về tội nhẹ hơn.
Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 13 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP quy định về phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong gia đoạn xét xử để hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung có hướng dẫn như sau: “2. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên chủ động phối hợp với HĐXX làm rõ những chứng cứ liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Nếu có một trong các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung quy định tại các điều 3, 4, 5 và 6 của Thông tư liên tịch này hoặc phát sinh những vấn đề mới, phức tạp mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa thì HĐXX tự mình hoặc theo đề nghị của Kiểm sát viên quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”.
Đối chiếu với 03 trường hợp đã trình bày trên đây thì thấy rằng cách xử lý trong trường hợp 02 và trường hợp 03 là phù hợp với quy định tại Điều 326 và hướng dẫn tại khoản 2 Điều 13 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP. Cách xử lý như tại trường hợp 01 là không phù hợp vì vừa đảm bảo giới hạn của việc trả hồ sơ của HĐXX cũng như yêu cầu trả hồ sơ của Viện kiểm sát tại phiên toà được đảm bảo([2]). Mặt khác, như đã trình bày trong mục 1 trên đây, theo nội dung Điều 326 BLTTHS thì HĐXX chỉ có thẩm quyền ban hành quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung sau khi đã nghị án.
Đồng thời, trong bất kỳ trường hợp nào HĐXX ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung thì đều phải được xác định giới hạn số lần trả hồ sơ theo quy định chung.
- Thứ Ba: Nhận thứ về ý nghĩa của chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong hoạt động TTHS.
Như đã trình bày, quy định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong BLTTHS được thiết kế nhằm mục đích đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự được thực hiện toàn diện, khách quan, kịp thời, tránh sự tùy tiện và tuân thủ pháp luật trong hoạt động TTHS.
Tuy nhiên, một số chủ thể tiến hành tố tụng có quan điểm cho rằng để bảo đảm cho việc điều tra, thu thập chứng cứ được đầy đủ, phục vụ cho mục đích xét xử vụ án được khách quan, không xảy ra oan sai và triệt để thì có thể chấp nhận vi phạm quy định về giới hạn số lần trả hồ sơ để điều ra bổ sung để trả hồ sơ nhiều hơn số lần quy định và đây thuộc vi phạm về hình thức nên không ảnh hưởng đến nội dung vụ án.
Tác giả cho rằng nhận thức như vậy là không phù hợp với tinh thần thượng tôn pháp luật và nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTHS được quy đinh tại Điều 7 của BLTTHS.
Trên đây là một số vấn đề còn tồn tại khi áp dụng quy định về trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử vụ án. Tác giả cho rằng những vấn đề này cần sớm được Tòa án nhân dân tối cao sớm có hướng dẫn để quá trình áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xử được thống nhất, đúng pháp luật và đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTHS.
Kết luận
Quy định về trả hồ sơ điều tra bổ sung đã được quy định từ BLTTHS năm 1988, không ngừng được hoàn thiện qua các BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 và là thủ tục có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình TTHS. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cần phải có nhận thức đúng đắn, thống nhất về vai trò, ý nghĩa của quy định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Đặc biệt, cần có ý thức trong việc tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật về trả hồ sơ điều tra bổ sung để không ngừng cung cố, nâng cao tinh thần thượng tôn pháp luật, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTHS.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.3. Nguyễn Quốc Thiện, Trả hồ sơ điều tra bổ sung khi Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Toà án trả hồ sơ - Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện, https://tapchitoaan.vn/tra-ho-so-dieu-tra-bo-sung-khi-vien-kiem-sat-co-van-ban-de-nghi-toa-an-tra-ho-so-%E2%80%93-vuong-mac-va-kien-nghi-hoan-thien11280.html.
[1] Nguyễn Quốc Thiện, Trả hồ sơ điều tra bổ sung khi Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Toà án trả hồ sơ - Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện, https://tapchitoaan.vn/tra-ho-so-dieu-tra-bo-sung-khi-vien-kiem-sat-co-van-ban-de-nghi-toa-an-tra-ho-so-%E2%80%93-vuong-mac-va-kien-nghi-hoan-thien11280.html, truy cập ngày 24/5/2025.
[2] Nguyễn Quốc Thiện. TLđd.
Ảnh minh hoạ - Nguồn: Internet.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Đại hội Đảng bộ Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, nhiệm kỳ 2025 – 2030 thành công tốt đẹp
-
Tòa án không có thẩm quyền hủy nội dung đăng ký, kê khai trong Sổ mục kê đất đai
-
Báo chí Cách mạng Việt Nam: “Mạch nguồn tri thức - Kết nối niềm tin”
-
Hôm nay, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
-
Từ ngày 01/6/2025 sẽ "hết mẹo" trong sát hạch giấy phép lái xe
Bình luận