Quy tắc ứng xử của Thẩm phán trong mối quan hệ công tác với các cơ quan, tổ chức, cá nhân và cơ quan thông tấn, báo chí

Nhằm mục đích đề cao ý thức chấp hành pháp luật, duy trì kỷ luật, kỷ cương công vụ, đề cao trách nhiệm cá nhân góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động công vụ, xây dựng đội ngũ Thẩm phán các cấp trong sạch, vững mạnh, kỷ cương, liêm chính; phòng ngừa, hạn chế phát sinh những hành vi tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động tư pháp của Tòa án; đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cải cách tư pháp, ngày 04/7/2018, Hội đồng Tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia đã ban hành Quyết định số 87/QĐ-HĐTC ban hành Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán. Bộ Quy tắc này quy định rõ ràng và cụ thể các chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, hành vi Thẩm phán không được làm hoặc phải tránh để đảm bảo sự liêm chính của Thẩm phán; là cơ sở để xem xét và xử lý kỷ luật đối với Thẩm phán nếu có hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử.

Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán có giá trị là các chuẩn mực đạo đức và ứng xử của người Thẩm phán, là cơ sở để người Thẩm phán tự giác noi theo và rèn luyện, tu dưỡng trong hoạt động công vụ cũng như trong đời sống hàng ngày, góp phần giúp đội ngũ Thẩm phán giữ gìn phẩm chất, nâng cao uy tín của cá nhân, từ đó tạo được niềm tin của nhân dân.

Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán đã đưa ra quy tắc ứng xử của Thẩm phán trong các mối quan hệ xã hội, bao gồm: Ứng xử khi thực hiện nhiệm vụ; ứng xử tại cơ quan; ứng xử với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác và thông tấn, báo chí; ứng xử với các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài; ứng xử tại nơi cư trú; ứng xử tại gia đình; ứng xử đối với các hoạt động ngoài nhiệm vụ xét xử. Điều 12 của Bộ Quy tắc đã quy định các Bộ quy tắc ứng xử của Thẩm phán trong quá trình giao tiếp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác và cơ quan thông tấn, báo chí; góp phần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa Thẩm phán, Tòa án với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác cũng như các cơ quan thông thông tấn, báo chí.

1. Mối quan hệ của Thẩm phán với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác; cơ quan thông tấn, báo chí trong quá trình thực hiện nhiệm vụ

Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính thì khi được phân công xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính, Thẩm phán có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:

Nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án;

– Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa hoặc tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ, lập hồ sơ vụ án;

Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật;

Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ án hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung;

Quyết định đưa vụ án ra xét xử;

Quyết định triệu tập những người tham gia tố tụng;

Tham gia xét xử các vụ án;

Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vẫn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử;

Bên cạnh các nhiệm vụ, quyền hạn như đã nói trên, trong các vụ án cụ thể Thẩm phán còn có các nhiệm vụ, quyền hạn riêng theo quy định của pháp luật tố tụng.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xét xử nêu trên, Thẩm phán có mối quan hệ với nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân và cơ quan thông tấn báo chí.

Trước tiên, Thẩm phán có mối quan hệ công tác với các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát) và người tiến hành tố tụng (Hội thẩm nhân dân, Điều tra viên, Kiểm sát viên). Đây là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ xét xử. Pháp luật tố tụng đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tiến hành tố tụng, từng người tiến hành tố tụng. Thẩm phán cũng như những người tiến hành tố tụng khác có trách nhiệm thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn được giao, đồng thời có trách nhiệm hỗ trợ, tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khác hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Tiếp theo, Thẩm phán có mối quan hệ công tác với những người tham gia tố tụng bao gồm: Luật sư, người giám định, người phiên  dịch… Mối quan hệ công tác này có thể phát sinh từ giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa. Quyền và nghĩa vụ của các bên đã được quy định cụ thể trong các luật tố tụng và trong các luật nội dung liên quan đến nhiệm vụ của từng chủ thể. Trong mối quan hệ phối hợp, Thẩm phán yêu cầu người tham gia tố tụng thực hiện đúng chức năng của mình, đồng thời phải tạo các điều kiện thuận lợi để họ thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đó.

Mặt khác, trong quá thực hiện nhiệm vụ, Thẩm phán có mối quan hệ công tác với nhiều cơ quan, tổ chức khác như: Cơ quan Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, cơ quan tài nguyên và môi trường, cơ quan thanh tra, cơ quan thi hành án… Đối với các cơ quan, tổ chức này, Thẩm phán phải có cách thức giao tiếp, ứng xử phù hợp để duy trì quan hệ tốt đẹp, đồng thời Thẩm phán cần phải có bản lĩnh, không để bị sự tác động, chi phối từ phía các cơ quan, tổ chức có quan hệ công tác làm ảnh hưởng đến công tác xét xử.

Ngoài ra, do đặc trưng hoạt động nghề nghiệp nên Thẩm phán thường xuyên phải làm việc với các cơ quan thông tấn, báo chí. Điểm d Điều 25 Luật Báo chí hiện hành nêu rõ: Nhà báo được hoạt động nghiệp vụ báo chí tại các phiên tòa xét xử công khai; được bố trí khu vực riêng để tác nghiệp; được liên lạc trực tiếp với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để lấy tin, phỏng vấn theo quy định của pháp luật… Thẩm phán có trách nhiệm tạo điều kiện để nhà báo tác nghiệp, tuy nhiên, Thẩm phán không được tùy tiện phát ngôn, không lợi dụng các cơ quan truyền thông làm ảnh hưởng đến các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

2. Nội dung quy tắc ứng xử của Thẩm phán trong quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác; cơ quan thông tấn, báo chí

2.1. Khái niệm quy tắc ứng xử của Thẩm phán trong quan hệ với cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác; cơ quan thông tấn, báo chí

Quy tắc ứng xử của Thẩm phán được hiểu là các chuẩn mực xử sự của Thẩm phán trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm những việc phải làm hoặc không được làm phù hợp với đặc thù công việc của Thẩm phán nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của Thẩm phán.

Quy tắc ứng xử của Thẩm phán trong quan hệ với cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác; cơ quan thông tấn, báo chí là các chuẩn mực xử sự của Thẩm phán trong quan hệ với cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác; cơ quan thông tấn, báo chí.

2.2. Sự cần thiết phải có quy tắc ứng xử của Thẩm phán trong quan hệ với cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác; cơ quan thông tấn, báo chí

Như đã phân tích ở trên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xét xử, Thẩm phán có mối quan hệ mật thiết với nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân và cơ quan thông tấn, báo chí. Trong các mối quan hệ này, Thẩm phán không chỉ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà còn chịu sự giám sát của chính các cơ quan, tổ chức, cá nhân này. Nhất cử nhất động, từ lời nói, hành động, tác phong của Thẩm phán trong suốt quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa cũng như trong sinh hoạt đời thường, đều chịu sự đánh giá, giám sát của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và toàn xã hội. Đây là một đặc thù nghề nghiệp tạo nên áp lực rất lớn đối với Thẩm phán, đòi hỏi họ không chỉ giỏi về nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị, có kinh nghiệm nghề nghiệp và đời sống để thực thi nhiệm vụ, mà còn cần phải có kỹ năng giao tiếp, ứng xử chuẩn mực, để đảm bảo thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình và giữ gìn hình ảnh đẹp của người Thẩm phán trong cái nhìn, sự đánh giá của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác và dư luận xã hội. Thẩm phán phải có nhận thức và ứng xử phù hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác và cơ quan thông tấn, báo chí, bảo đảm cho việc xử lý các quan hệ này một cách lành mạnh, chuẩn mực, không có hành động lôi kéo, làm trung gian, móc nối với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng vào việc làm trái pháp luật hoặc lợi dụng các cơ quan truyền thông làm ảnh hưởng đến các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Để Thẩm phán có xử sự đúng đắn với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác và cơ quan thông tấn, báo chí, cần thiết phải quy định quy tắc ứng xử của Thẩm phán với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác và cơ quan thông tấn, báo chí.

2.3. Nội dung quy tắc ứng xử của Thẩm phán trong quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác; cơ quan thông tấn, báo chí

Về yêu cầu chung, trước hết, trong các quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác và cơ quan thông tấn, báo chí, Thẩm phán phải tuân thủ các chuẩn mực đạo đức được quy định trong Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán. Trong quá trình giải quyết vụ việc, Thẩm phán phải giữ gìn bản lĩnh nghề nghiệp để không bị tác động từ bất kỳ sự can thiệp nào, phải độc lập, không thể bị chi phối bởi tất cả các yếu tố tác động trong nội bộ và bên ngoài Tòa án, trong đó có các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác và cơ quan thông tấn, báo chí. Thẩm phán phải luôn đảm bảo sự vô tư, khách quan, không được có bất cứ phát biểu hay bình luận nào tại phiên tòa, phiên họp, trước công chúng hoặc truyền thông làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ việc một cách vô tư, khách quan. Trong mọi hoạt động của mình và trong các quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác và cơ quan thông tấn, báo chí, Thẩm phán phải hành xử đúng mực, lịch thiệp, thận trọng; duy trì trật tự và sự tôn nghiêm trong quá trình tố tụng và trong quan hệ công tác.

Bên cạnh đó, trong quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác và cơ quan thông tấn, báo chí, Thẩm phán cần tuân thủ các quy tắc ứng xử riêng, phù hợp với đặc thù của từng mối quan hệ.

2.3.1. Quy tắc ứng xử của Thẩm phán trong quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác

Theo quy định tại Điều 12 Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán, trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác, Thẩm phán phải tuân theo các quy tắc ứng xử như sau:

Thẩm phán chỉ phát ngôn, cung cấp thông tin, tài liệu về xét xử, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng với các cơ quan, tổ chc, cá nhân có liên quan khi được cấp lãnh đạo có thẩm quyền phân công theo đúng quy định của pháp luật.

Khi tiếp xúc với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác, Thẩm phán phải có thái độ tôn trọng, lắng nghe ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác.

Việc phát ngôn, cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến quá trình giải quyết vụ việc đối với đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết vụ việc được thực hiện theo các quy định của pháp luật tố tụng tương ứng với vụ việc đang giải quyết.

Đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, Thẩm phán chỉ phát ngôn, cung cấp thông tin, tài liệu về xét xử, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng khi được cấp lãnh đạo có thẩm quyền phân công theo đúng quy định của pháp luật. Thẩm phán không được phát ngôn, cung cấp thông tin tùy tiện gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của Thẩm phán, uy tín của Tòa án, ảnh hưởng xấu đến chính trị, an ninh.

Khi giao tiếp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác, Thẩm phán phải có kỹ năng ứng xử linh hoạt. Trong trường hợp được phép cung cấp thông tin, tài liệu, Thẩm phán cần phải cung cấp kịp thời, đầy đủ. Trong trường hợp không được phép cung cấp thông tin, tài liệu, Thẩm phán cần có cách giải thích khéo léo để các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu, thực hiện đúng mà làm ảnh hưởng xấu đến quá trình phối hợp công tác về sau.

Khi chưa ban hành bản án, quyết định, Thẩm phán không được phát biểu công khai quan điểm của mình về việc giải quyết vụ việc.

Thẩm phán đưa ra phán quyết giải quyết vụ án trên cơ sở tổng hợp nhiều căn cứ, trong đó phải dựa trên các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo, các bên đương sự, đặc biệt là căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Do vậy, khi chưa có bản án, quyết định, Thẩm phán không được phát biểu công khai quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án.

Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, tại các buổi làm việc, tại phiên họp hoặc tại phiên tòa, Thẩm phán phải hết sức thận trọng, không được có bất cứ phát biểu hay bình luận nào thể hiện quan điểm của mình làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ việc một cách vô tư, khách quan. Đây là một trong những chuẩn mực ứng xử quan trọng mà Thẩm phán phải chú ý, để tránh trường hợp đương sự hiểu nhầm là Thẩm phán không vô tư, khách quan hoặc thiên vị cho một bên đương sự khi giải quyết vụ án.

Sau khi có bản án, quyết định giải quyết vụ việc, Thẩm phán được quyền thông tin về việc giải quyết vụ việc đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác trong phạm vi và hình thức theo quy định của pháp luật.

Thẩm phán không được cung cấp bản án, quyết định cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác trừ các hình thức đã được pháp luật quy định.

Việc cung cấp bản án, quyết định của Tòa án cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuyệt đối tuân thủ theo quy định của pháp luật.

Ngoài các trường hợp đã được pháp luật quy định, Thẩm phán không được cung cấp bản án, quyết định cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác vì bất kỳ lý do gì.

Bên cạnh đó, với tư cách là Chủ tọa phiên tòa, phiên họp, Thẩm phán chịu trách nhiệm về việc mã hóa, số hóa và công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/3/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về  việc công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án.

2.3.2. Quy tắc ứng xử của Thẩm phán trong quan hệ với các cơ quan thông tấn, báo chí

Theo quy định tại Điều 12 Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán, trong quan hệ với các cơ quan thông tấn báo chí, Thẩm phán phải tuân theo các quy tắc ứng xử như sau:

Thứ nhất, Thẩm phán phải tuân thủ các quy tắc ứng xử quy định tại các khoản 1, 2, 3 Điều 12 Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán tương tự như quy định ứng xử với các cơ quan, tổ chức, các nhân có quan hệ công tác. 

Khi có nhà báo tham gia phiên tòa, Thẩm phán phải kiểm tra thẻ nhà báo, để đảm bảo tính xác thực. Trường hợp nhà báo có yêu cầu ghi âm, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử, tùy từng trường hợp có thể đồng ý hoặc không đồng ý. Trường hợp nhà báo có yêu cầu ghi âm, ghi hình những người tham gia tố tụng, Thẩm phán phải hỏi ý kiến của người tham gia tố tụng, nhà báo chỉ được ghi âm, ghi hình những người tham gia tố tụng khi họ đồng ý.

Đối với những vụ việc được dư luận xã hội quan tâm, các cơ quan thông tấn, báo chí thường xuyên thực hiện hiện việc phỏng vấn các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến vụ án hoặc có liên quan đến việc giải quyết vụ việc, trong đó có Thẩm phán. Khi được phỏng vấn, dù là Thẩm phán đang thụ lý giải quyết vụ án hay Thẩm phán không liên quan đến việc giải quyết vụ án thì đều không được phát biểu công khai quan điểm của mình với cơ quan thông tấn, báo chí về việc giải quyết vụ việc khi chưa có bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Do vậy, Thẩm phán phải hết sức thận trọng khi được hỏi, được phỏng vấn về quan điểm giải quyết vụ việc, không được có bất cứ phát biểu hay bình luận nào thể hiện quan điểm của mình về việc giải quyết vụ việc. Sau khi có bản án, quyết định giải quyết vụ việc, Thẩm phán được quyền thông tin, bình luận về việc giải quyết vụ việc với cơ quan thông tấn, báo chí trong phạm vi và hình thức theo quy định của pháp luật.

Theo quy định của Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP, các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động đã có hiệu lực pháp luật phải được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án, trừ các bản án, quyết định quy định tại Điều 4 Nghị quyết này. Các bản án, quyết định đã có hiệu lực không công bố trên cổng thông tin điện tử của Tòa án bao gồm:

Bản án, quyết định về vụ việc được Tòa án xét xử kín.

Bản án, quyết định về vụ việc được Tòa án xét xử, giải quyết công khai nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Có chứa nội dung thuộc danh mục bí mật nhà nước theo quy định của Chính phủ hoặc chứa đựng những nội dung mà Nhà nước chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà nước;

+ Có chứa đựng thông tin về hoạt động đầu tư tài chính, bí quyết nghề nghiệp, công nghệ chưa được bộc lộ, có thể được sử dụng và tạo lợi thế trong kinh doanh mà trong quá trình Tòa án xét xử, giải quyết vụ việc, người tham gia tố tụng đã có yêu cầu được giữ bí mật;

+ Có chứa đựng nội dung ảnh hưởng xấu đến truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư;

+  Có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi;

+ Có chứa đựng nội dung liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình mà chưa được mã hóa theo hướng dẫn tại Điều 7 của Nghị quyết này.

Thứ hai, Thẩm phán có thể tham gia phỏng vấn, khảo sát dựa trên kinh nghiệm công tác chuyên môn để phục vụ nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế khi hoạt động này không gây ảnh hưởng đến giải quyết vụ việc

Trong quá trình hoạt động nghề nghiệp, Thẩm phán không chỉ đơn thuần thực hiện nhiệm vụ xét xử, mà có thể tham gia nhiều hoạt động khác như hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, hội thảo khoa học… để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ. Thẩm phán có thể tham gia phỏng vấn, khảo sát dựa trên kinh nghiệm công tác chuyên môn để phục vụ nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế với điều kiện là hoạt động này không gây ảnh hưởng đến giải quyết vụ việc mà Thẩm phán có nhiệm vụ giải quyết.

3. Đề xuất, kiến nghị trong việc triển khai Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán

3.1. Chú trọng công tác tuyên truyền thực hiện Bộ Quy tắc

Lãnh đạo Tòa án các cấp phải nhận thức rõ tầm quan trọng của việc thực hiện Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán; thường xuyên tổ chức tuyên truyền quán triệt thực hiện Bộ Quy tắc. Việc tuyên truyền được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, cụ thể là: Tổ chức phổ biến, tuyên truyền tại các cuộc họp, hội nghị, sinh hoạt chuyên môn của cơ quan, đơn vị; nhắc nhở, rút kinh nghiệm đối với từng trường hợp cụ thể; tổ chức các lớp bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho Thẩm phán với các phương thức truyền thụ phong phú, thích hợp và hấp dẫn; thông qua công tác giám sát Thẩm phán để tuyên truyền, phổ biến… Công tác tuyên truyền phải đảm bảo có hiệu quả, để mỗi Thẩm phán đều phải nắm vững và xem Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán như kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Không chỉ trong hoạt động công vụ mà ngay cả trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, Thẩm phán phải luôn ý thức và nghiêm túc thực hiện Bộ Quy tắc. Việc rèn luyện để nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người Thẩm phán phải tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình công tác. Xuất phát từ công việc hàng ngày, thông qua các mối quan hệ xã hội, thông qua các phiên xét xử…, người Thẩm phán phải nhìn nhận và đánh giá lại chính mình, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện để khắc phục nhược điểm, xây dựng và hoàn thiện những ưu điểm, những phẩm chất tốt đẹp của bản thân.

3.2. Định kỳ tổng kết, đánh giá việc thực hiện Bộ Quy tắc

Hàng năm, Tòa án các cấp phải tổ chức tổng kết, đánh giá việc thực hiện Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán, bao gồm những kết quả đạt được, hạn chế và phương hướng khắc phục. Việc tổng kết, đánh giá phải đảm bảo tính trung thực, khách quan, thực chất và phải kiên quyết, không dung túng cho những trường hợp vi phạm.

3.3. Chú trọng công tác khen thưởng đối với các Thẩm phán thực hiện tốt Bộ Quy tắc

Trong thời gian vừa qua, việc khen thưởng Thẩm phán được áp dụng cho những Thẩm phán có những thành tích đặc biệt xuất sắc, tiêu biểu trong công tác xét xử, đã trực tiếp giải quyết số lượng án lớn mà không có án quá hạn luật định, không có án bị hủy do lỗi chủ quan và số lượng bình quân xét xử hàng tháng phải cao hơn các Thẩm phán khác. Hình thức khen thưởng được áp dụng là tặng thưởng các danh hiệu “Thẩm phán giỏi”, “Thẩm phán tiêu biểu”, “Thẩm phán mẫu mực”. Tiêu chí đánh giá để khen thưởng mới chỉ tập trung về hoạt động chuyên môn của Thẩm phán theo từng năm, từng nhiệm kỳ mà chưa đề cập đến các tiêu chí về đạo đức và ứng xử; do đó, chưa thể đánh giá toàn diện về năng lực, phẩm chất đạo đức của Thẩm phán.

Trong thời gian tới, cần phải đổi mới các phương thức, quy trình đánh giá Thẩm phán bằng cách từng bước xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn đánh giá với các tiêu chí được xác định rõ ràng về mọi mặt; ngoài các tiêu chí về chuyên môn, cần thiết phải đánh giá hiệu quả thực hiện Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán. Cấp Ủy Đảng Tòa án nhân dân các cấp cần xây dựng kế hoạch theo dõi, đánh giá và khen thưởng đối với các Thẩm phán có ý thức trách nhiệm với nghề nghiệp, có tinh thần tự giác rèn luyện phẩm chất đạo đức, có lối sống, phong cách, ứng xử mẫu mực. Việc khen thưởng phải được thực hiện trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện, công minh và kịp thời kết quả công tác và quá trình phấn đấu của Thẩm phán. Đồng thời, cần có chế độ, chính sách ưu đãi đối với những Thẩm phán công tác ở vùng sâu, vùng xa, khu vực đặc biệt khó khăn…

Quá trình tự giác thực hiện Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán, cũng như rèn luyện năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của người Thẩm phán sẽ được tiếp thêm động lực, đạt hiệu quả cao, có tác dụng lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng nếu được tổ chức cơ sở Đảng chú trọng, quan tâm, khen thưởng, động viên, khuyến khích kịp thời.

3.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát kịp thời phát hiện những trường hợp vi phạm Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán

Tòa án nhân dân các cấp cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát kịp thời phát hiện những trường hợp vi phạm Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán với các giải pháp sau:

Nâng cao vai trò, trách nhiệm, tăng cường và đổi mới chức năng, nhiệm vụ trong các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám đốc việc xét xử của các Tòa án, ngoài việc tập trung vào những hạn chế, thiếu sót trong công tác xét xử không đúng quy định của pháp luật, cũng cần phải chú trọng đến việc phát hiện các vi phạm về đạo đức, ứng xử, phong cách, lối sống của Thẩm phán, đặc biệt là công tác phòng, chống tham nhũng.

– Thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra việc thực hiện Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán. Duy trì chế độ tự kiểm tra, báo cáo định kỳ đối với các đơn vị trong toàn hệ thống Tòa án với quan điểm chủ động phát hiện và khắc phục những sai sót.

Nâng cao vai trò của các cơ quan thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, giám sát trong các Tòa án nhân dân theo hướng chú trọng công tác thanh tra công vụ và xác định thanh tra công tác xét xử là hoạt động trọng tâm; tăng mạnh quyền độc lập, chủ động trong các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát theo các quy định, quy chế, nội quy quản lý công vụ, công chức Tòa án nhân dân; thực hiện tốt việc điều động, phân công những cán bộ có năng lực, bản lĩnh và kinh nghiệm trong các hoạt động tư pháp của Tòa án vào làm công tác thanh tra.

Nâng cao hiệu quả giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo nói chung. Đặc biệt, đối với công tác kiểm tra, giám sát trong trường hợp Thẩm phán có nhiều đơn tố cáo về những hành vi lạm quyền, gây sách nhiễu, vi phạm các quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán thì phải xem xét, xác minh làm rõ, xử lý kịp thời, đáp ứng yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong các Tòa án nhân dân.

Phối hợp với các cơ quan tư pháp khác trong việc xây dựng quy chế phối hợp về xử lý và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo cán bộ, công chức nhằm kịp thời phát hiện và xử lý các biểu hiện và hành vi tiêu cực một cách có hiệu quả.

3.5. Xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm

Đối với các trường hợp vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán sau khi bị phát hiện cần phải xử lý nghiêm minh. Hiện tại, Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán chưa quy định chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm. Do đó, khi xem xét, xử lý các trường hợp vi phạm cần phải căn cứ vào khoản 2 Điều 82 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định về cách thức xử lý Thẩm phán vi phạm các quy định của pháp luật, trong đó có vi phạm về phẩm chất đạo đức, quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, cụ thể như sau:

2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, Thẩm phán có thể bị cách chức khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Vi phạm trong công tác xét xử, giải quyết những việc thuộc thẩm quyền của Tòa án;

b) Vi phạm quy định tại Điều 77 của Luật này;

c) Vi phạm về phẩm chất đạo đức;

d) Vi phạm quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán;

đ) Có hành vi vi phạm pháp luật khác.”

Tuy nhiên, những quy định này còn mang tính chất chung chung, chưa phân loại mức độ, tính chất của hành vi vi phạm để có hình thức xử lý phù hợp. Trong thời gian tới, Tòa án nhân dân tối cao cần quan tâm xây dựng cơ chế xử lý vi phạm đối với các trường hợp vi phạm Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi phạm có thể bị xử lý bằng một trong các hình thức sau: Khiển trách, kiểm điểm; tạm dừng nhiệm vụ xét xử có thời hạn; tạm dừng xem xét đề nghị bộ nhiệm lại khi hết nhiệm kỳ; không xem xét đề nghị bổ nhiệm lại khi kết thúc nhiệm kỳ; cách chức; đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự. Đồng thời, trong quá trình xử lý các trường hợp vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán, cần thiết phải xem xét, cân nhắc thêm việc áp dụng các quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong Tòa án nhân dân (Ban hành kèm theo Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017 của Tòa án nhân dân tối cao), đặc biệt là cần phân biệt các hành vi vi phạm quy tắc đạo đức, ứng xử với vi phạm các quy định về nghiệp vụ, từ đó có thể áp dụng các hình thức xử lý phù hợp đối với mỗi hành vi vi phạm.


[1] Tiến sỹ Nguyễn Minh Sử – Phó Giám đốc Học viện Tòa án

[2] Thạc sỹ Lê Thị Dung – Giảng viên Học viện Tòa án

 

 

 

 

 

TS. NGUYỄN MINH SỬ [1], THS. LÊ THỊ DUNG [2]