
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn, vướng mắc và kiến nghị
Một trong những vấn đề cần giải quyết khi ly hôn chính là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn. Mặc dù ly hôn không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con cái, tuy nhiên, cách thức, điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ trẻ em đã thay đổi. Việc nghiên cứu, hoàn thiện quy định pháp luật về nội dung này là yêu cầu tất yếu, khách quan.
1. Quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn áp dụng
Thứ nhất, về trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn.
Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (Luật HN & GĐ) quy định:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
Sau khi ly hôn, lúc này thường cha mẹ không chung sống cùng nhau nên trẻ em sẽ không thể sống chung cùng cả cha và mẹ. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là ai sẽ là người trực tiếp thực hiện việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Khi ly hôn, cha mẹ thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ và quyền của mỗi bên đối với con. Việc thỏa thuận này tạo điều kiện để cha mẹ thống nhất quan điểm, lựa chọn điều kiện tốt nhất và phù hợp nhất cho sinh hoạt, học tập và các hoạt động khác của con được diễn ra bình thường, ổn định. Sự thỏa thuận này của cha mẹ phải nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của con, phù hợp với điều kiện của cha, mẹ.
Trong trường hợp cha, mẹ “không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con”. Để xem xét thống nhất “quyền lợi về mọi mặt của con” tại khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định:
“1. Khi xem xét “quyền lợi về mọi mặt của con” quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình phải đánh giá khách quan, toàn diện các tiêu chí sau đây:
a) Điều kiện, khả năng của cha, mẹ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, bao gồm cả khả năng bảo vệ con khỏi bị xâm hại, bóc lột;
b) Quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi, được duy trì mối quan hệ với người cha, mẹ không trực tiếp nuôi;
c) Sự gắn bó, thân thiết của con với cha, mẹ;
d) Sự quan tâm của cha, mẹ đối với con;
đ) Bảo đảm sự ổn định, hạn chế sự xáo trộn môi trường sống, giáo dục của con;
e) Nguyện vọng của con được ở cùng với anh, chị, em (nếu có) để bảo đảm ổn định tâm lý và tình cảm của con;
g) Nguyện vọng của con được sống chung với cha hoặc mẹ”.
Như vậy, pháp luật quy định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn khá đầy đủ, chi tiết và ưu tiên việc bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho con sau khi vợ chồng ly hôn.
Thứ hai, về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Người không trực tiếp nuôi dưỡng con có các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 82 Luật HN & GĐ bao gồm:
“1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.”
Về nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với cha hoặc mẹ là người trực tiếp nuôi: Bên cạnh các bậc cha mẹ thấu hiểu được nỗi đau, sự tổn thương của con và họ luôn sẵn lòng chung tay với người trực tiếp nuôi con tạo môi trường sống tốt nhất cho con thì cũng có một số cha mẹ vì lòng thù ghét, ích kỷ cá nhân nên đã lạm dụng quyền lợi chính đáng này để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi con.
Vì vậy, pháp luật ghi nhận chế tài hạn chế quyền thăm nom con nhằm bảo vệ quyền được chăm sóc, giáo dục của con sau khi cha mẹ ly hôn. Sau khi ly hôn, cha, mẹ cần tạo điều kiện tốt nhất để bù đắp phần nào những tổn thương, những thiệt thòi mà trẻ em phải gánh chịu từ việc ly hôn của cha mẹ. Người không trực tiếp nuôi con phải tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
Trên thực tế, nhiều trường hợp cha, mẹ tranh giành quyền nuôi con nên người không được trực tiếp nuôi con cố tình không trao con cho người trực tiếp nuôi hoặc lợi dụng việc thăm nom con để giữ con. Việc tranh chấp đó ảnh hưởng đến cuộc sống, tâm lý, sức khỏe, học tập... của con mà nguyên nhân là do cách hành xử của cha mẹ.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con: Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con nhằm đảm bảo quyền được nuôi dưỡng cho trẻ em, là nghĩa vụ nuôi dưỡng của cha, mẹ đối với con. Khi cha, mẹ ly hôn người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con nhằm góp phần đề cao trách nhiệm của cha mẹ trong việc chăm sóc nuôi dưỡng con cái. Mức cấp dưỡng cho con do cha mẹ thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người phải cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của con.
Trường hợp cha, mẹ không thỏa thuận được mức cấp dưỡng thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Mức cấp dưỡng có thể thay đổi theo sự thỏa thuận của các bên hoặc Tòa án quyết định khi có lý do chính đáng theo quy định tại khoản 2 Điều 116 Luật HN & GĐ. Quy định này là hoàn toàn phù hợp, bởi lẽ mức cấp dưỡng thường được quyết định dựa trên các điều kiện thực tế tại thời điểm ly hôn. Sau khi ly hôn, các điều kiện này có thể thay đổi và để đảm bảo tốt nhất quyền lợi của con thì mức cấp dưỡng cũng cần thay đổi cho phù hợp với điều kiện sinh hoạt, học tập, chăm sóc sức khỏe... thực tế của con.
Tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “Tiền cấp dưỡng cho con là toàn bộ chi phí cho việc nuôi dưỡng, học tập của con và do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng do Tòa án quyết định nhưng không thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng đối với mỗi người con”.
Đối với trường hợp các bên tự thỏa thuận về mức cấp dưỡng nuôi con và đề nghị Tòa án ghi nhận thì Tòa án có cần phải xác minh, xem xét mức cấp dưỡng đó có phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng không. Trên thực tế, nhiều sự thỏa thuận mức cấp dưỡng thấp hơn nhiều so với nhu cầu thiết yếu của con và khả năng tài chính của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Chúng tôi công tác tại địa bàn Khu vưc miền núi của Tây Nguyên, nơi có nhiều người đồng bào dân tộc thiểu số Ba Na và Jrai sinh sống theo truyền thống mẫu hệ nên đa phần các vụ án ly hôn đều thỏa thuận giao con cho người mẹ nuôi dưỡng và người cha không phải cấp dưỡng nuôi con hoặc thỏa thuận mức cấp dưỡng rất thấp chỉ từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng/con chung/tháng. Tuy rằng Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nhưng sự thỏa thuận của các đương sự về mức cấp dưỡng nhưng người trực tiếp nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng hoặc có thỏa thuận mức cấp dưỡng thấp thì với mức cấp dưỡng như vậy lại không đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng trong bối cảnh kinh tế xã hội như hiện nay. Tòa án cần phải xác minh, xem xét và Quyết định phù hợp.
Đối với trường hợp các bên không thỏa thuận được mức cấp dưỡng thì Tòa án quyết định nhưng không thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng đối với mỗi người con.
Về quyền và nghĩa vụ thăm nom con: Để đảm bảo trẻ em được nhận tình yêu thương, quan tâm, chăm sóc của cả cha và mẹ khi ly hôn; cha, mẹ không trực tiếp nuôi con thì có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con.
Ngược lại, người trực tiếp nuôi con cũng không được cản trở người không trực tiếp nuôi con thực hiện nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con. Tuy nhiên, trong trường hợp “cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó”. Pháp luật quy định chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền tuyên bố hạn chế quyền thăm nom con của người có hành vi lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến con.
Để không làm ảnh hưởng đến việc học tập, sinh hoạt, cuộc sống của con thì người không trực tiếp nuôi con cần phải thỏa thuận với người trực tiếp nuôi con về thời gian, địa điểm thăm con, báo trước cho người trực tiếp nuôi con nếu muốn thăm con không theo thời gian, địa điểm đã thỏa thuận trước.
Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Tại Điều 83 Luật HN & GĐ quy định cụ thể như sau:
“1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.”
Vì lợi ích và sự phát triển ổn định của con, người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của bản án có hiệu lực pháp luật. Trường hợp cố tình trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, người không trực tiếp nuôi con có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Khi quyết định nuôi con, người trực tiếp nuôi con cần được các thành viên gia đình tôn trọng bao gồm cả gia đình bên nội và bên ngoại của trẻ em. Việc tôn trọng này trên thực tế còn khó thực hiện bởi việc quy định về vấn đề tình cảm, không những của cha mẹ trẻ em mà còn liên quan đến các thành viên gia đình.
Thứ tư, về quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Điều 84 Luật HN & GĐ quy định:
“1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.
5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.”
Khi có căn cứ cho thấy cha, mẹ đang trực tiếp nuôi dưỡng con cái không còn đủ điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con để phù hợp hơn với lợi ích của con thì Tòa án có thể ra quyết định về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và trẻ em hoặc Hội liên hiệp phụ nữ. Trong trường hợp cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án sẽ quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Tuy nhiên, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng cần xem xét tới nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên như trong trường hợp quyết định giao con cho cha hay mẹ nuôi khi ly hôn.
2. Một số khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị
Trên cơ sở những phân tích trên đây, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị:
Thứ nhất, về thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con
Khoản 2 Điều 81 Luật HN&GĐ quy định 02 trường hợp về việc xác định người trực tiếp nuôi con sau ly hôn gồm:
- Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con;
- Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được việc ai sẽ là người trực tiếp nuôi con sau ly hôn. Nội dung về xác định quyền lợi về mọi mặt của con đối với trường hợp do Tòa án ra quyết định được xác định cụ thể tại Điều 6 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP. Tuy nhiên, quy định này là chưa thực sự phù hợp, bao quát, cụ thể:
Luật mới chỉ quy định trong trường hợp Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi thì mới đặt ra yêu cầu xem xét quyền lợi về mọi mặt của con. Tuy nhiên, trường hợp vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con thì có yêu cầu xác định quyền lợi về mọi mặt cho con hay không thì chưa được quy định cụ thể, dẫn đến khó khăn, vướng mắc khi Tòa án công nhận sự thỏa thuận của vợ, chồng về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với con sau khi ly hôn. Theo đó, căn cứ quy định của Điều luật, có Tòa án sẽ xem xét, xác định đầy đủ các tiêu chí để đánh giá việc bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con; tuy nhiên, có Tòa án lại chỉ công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về nội dung này mà không xem xét đến các tiêu chí quy định tại Điều 6 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP, vì cho rằng, khoản 3 Điều 81 Luật HN&GĐ không đặt ra yêu cầu này. Chúng tôi cho rằng, Tòa án tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng về vấn đề con chung khi ly hôn nhưng cũng cần xem xét đến lợi ích về mọi mặt của con, sự thỏa thuận đó có bảo vệ được quyền của con hay không. Vì vậy, trước khi Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án cần phải xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ để chứng minh khả năng của mỗi bên về đảm bảo việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
Nếu xét thấy sự thỏa thuận đó là không bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con thì Tòa án có quyền không công nhận sự thỏa thuận đó và yêu cầu các bên làm rõ dựa trên các tiêu chí về bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho con. Thực tiễn có nhiều tình huống sự thỏa thuận của cha mẹ không hoàn toàn vì lợi ích của con. Ví dụ: Một bên lấy việc nuôi con để gây áp lực cho bên kia trong việc ly hôn; một bên lấy việc cấp dưỡng cho con để được quyền được nuôi con... Các thỏa thuận phổ biến nhất trong quyết định ly hôn được Tòa án công nhận là người không trực tiếp nuôi con không phải cấp dưỡng cho con “do người trực tiếp nuôi con không yêu cầu”.
Để bảo đảm căn cứ pháp lý cho Tòa án giải quyết trong trường hợp này, đồng thời, để việc áp dụng pháp luật thống nhất trong thực tiễn, chúng tôi kiến nghị, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần sớm sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP theo hướng xác định việc xem xét “quyền lợi về mọi mặt của con” quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình với các tiêu chí cụ thể nêu tại khoản 1 Điều 6 cần được áp dụng đối với cả trường hợp vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con.
Đồng thời, chúng tôi kiến nghị, khi sửa đổi, bổ sung Luật HN&GĐ năm 2014, nhà làm luật cần sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 81 như sau: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con phải đảm bảo nguyên tắc vì lợi ích của con chưa thành niên và căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con...”.
Với quy định này, không chỉ trong trường hợp Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi mà trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận thì Tòa án phải có trách nhiệm xem xét thỏa thuận của vợ, chồng có thực chất có vì lợi ích của con hay không trước khi công nhận thỏa thuận đó, đảm bảo các quyền của trẻ em đồng thời đảm bảo tính ổn định của các bản án, quyết định liên quan đến việc trực tiếp nuôi dưỡng con.
Thứ hai, về mức cấp dưỡng cho con
Luật HN&GĐ năm 2014 và Nghị quyết số Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP quy định việc xác định mức cấp dưỡng cho con sau ly hôn như phân tích ở trên. Theo đó, mức cấp dưỡng do Tòa án quyết định nhưng không thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng đối với mỗi người con. Chúng tôi cho rằng, mức cấp dưỡng như vậy là thấp, chưa tương xứng với các chi phí cho việc nuôi dưỡng, học tập của con trong giai đoạn hiện nay. Chi phí nuôi con hiện nay rất đa dạng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như độ tuổi, khu vực sinh sống, và cách nuôi dạy con của mỗi gia đình. Nhưng nhìn chung, các khoản chi phí chính nuôi dưỡng con bao gồm: ăn, mặc, ở, học tập, y tế, vui chơi giải trí và các chi phí phát sinh khác. Chi phí cho việc nuôi dưỡng, học tập của con trên thực tế cao hơn rất nhiều so với quy định về mức cấp dưỡng quy định nêu trên. Người được cấp dưỡng sinh sống ở vùng thành phố lớn thì chi phí cho việc nuôi dưỡng và học tập càng cao hơn khu vực nông thôn. Trường hợp người được cấp dưỡng sinh sống ở vùng thành phố lớn còn người cấp dưỡng sinh sống ở vùng nông thôn nhưng Tòa án lại quyết định mức cấp dưỡng theo lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú là không phù hợp, không đảm bảo các chi phí nuôi dưỡng, học tập của con.
Chúng tôi kiến nghị, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao khi sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP, cần sửa khoản 2 Điều 7 như sau: “Tiền cấp dưỡng cho con là toàn bộ chi phí cho việc nuôi dưỡng, học tập của con và do các bên thỏa thuận nhưng phải đảm bảo không thấp hơn mức tối thiểu mà luật quy định. Trường hợp các bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng do Tòa án quyết định nhưng không thấp hơn một tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú, trường hợp lương tối thiểu vùng tại nơi người được cấp dưỡng cư trú cao hơn thì áp dụng mức lương tối thiểu vùng nơi người được cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng đối với mỗi người con”.
Thứ ba, về căn cứ thay đổi người trực tiếp nuôi con
Trên thực tế vẫn có trường hợp người trực tiếp nuôi con theo Bản án hoặc Quyết định của Tòa án có hiệu lực nhưng không thực hiện nghĩa vụ của người chăm sóc trực tiếp như: mẹ gửi con cho ông bà ngoại để đi bước nữa, cha ham mê tệ nạn, bỏ bê không chăm sóc con, lấy vợ mới...
Vì vậy, việc người không trực tiếp nuôi con đã thực hiện quyền của mình là đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con để đảm bảo các quyền của trẻ em được thực hiện tốt hơn. Điều 84 Luật HN&GĐ quy định điều kiện để thay đổi quyền nuôi con chỉ dừng lại ở việc tôn trọng thỏa thuận của cha, mẹ và điều kiện chăm sóc của cha, mẹ mà chưa phản ánh hết thực tế nếu tình huống pháp lý xảy ra trường hợp cả cha, mẹ đều đáp ứng điều kiện chăm sóc con, không thỏa thuận được người trực tiếp nuôi mà vẫn mong muốn thay đổi quyền nuôi con thì Tòa án sẽ thiếu căn cứ để xem xét giải quyết.
Trên thực tế có nhiều tình huống xảy ra như: bên trực tiếp nuôi con một mặt yêu cầu bên không trực tiếp nuôi con tôn trọng quyền nuôi con của mình mặt khác cố tình cản trở quyền thăm nom con của người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng bằng cách đem con bỏ đi nơi khác, không thông báo cũng như không để lại địa chỉ, phương tiện liên lạc với người không trực tiếp nuôi con. Trường hợp cả cha và mẹ đều đáp ứng các quy định tại điểm b khoản 2 Điều 84 về điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con và không thỏa thuận được việc thay đổi quyền nuôi con thì Tòa án giải quyết như thế nào? Vấn đề này hiện nay quy định của Luật còn chưa cụ thể, do đó, thiếu căn cứ pháp lý cụ thể để Tòa án áp dụng khi giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình.
Chúng tôi kiến nghị, khi sửa đổi, bổ sung Luật HN&GĐ cần bổ sung thêm điểm c, d khoản 2 Điều 84 về các căn cứ thay đổi người trực tiếp nuôi con như sau:
“c) Trường hợp người trực tiếp nuôi con có hành vi cản trở hoặc các hành vi khác khiến cho người không trực tiếp nuôi con không thực hiện được quyền thăm nom, chăm sóc giáo dục con.
d) Trong trường hợp các bên đều đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì ưu tiên giải quyết việc thay đổi quyền nuôi con trên cơ sở bảo đảm tính ổn định cho sự phát triển của con”./.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Thẩm quyền trong tố tụng hình sự của điều tra viên là trưởng hoặc phó trưởng Công an cấp xã
-
Quy định về chiếm hữu và bảo vệ việc chiếm hữu theo Bộ luật Dân sự năm 2015 – một số vấn đề cần lưu ý và đề xuất, kiến nghị
-
Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao về đối tượng khởi kiện vụ án hành chính
-
Trao đổi bài viết “Chiếc ghe máy đánh bắt cá có được xác định là tài sản mà Phạm Hữu V đã trộm cắp của ông Nguyễn Văn C không?”
-
Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên trao quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Thái Khắc Thành "vụ Gà lôi"
Bình luận