Quyết định thi hành án hình sự khi có quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án - vướng mắc và kiến nghị

Tổng hợp hình phạt là một chế định pháp lý bảo đảm tính công bằng xã hội, thể hiện nguyên tắc trừng trị trong chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội. Trong thực tế, một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội và bị xét xử bằng nhiều bản án khác nhau. Khi xét xử bản án sau mà bản án trước chưa có hiệu lực hoặc bản án trước tuy đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được tổng hợp hình phạt thì cần phải được tổng hợp hình phạt của các bản án. Tuy nhiên, việc ban hành quyết định thi hành án hình sự khi có quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án còn bộc lộ một số tồn tại, vướng mắc cần sớm được nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện.

1. Quy định của pháp luật về tổng hợp hình phạt và thi hành án hình sự khi có quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án là việc Tòa án cộng các hình phạt mà người phạm tội bị kết án thành một hình phạt chung buộc người phạm tội phải chấp hành. Quy định về tổng hợp hình phạt đã được ghi nhận từ sớm trong pháp luật hình sự nước ta.

So sánh quy định tại Điều 43 của Bộ luật Hình sự 1985, Điều 51 của Bộ luật Hình sự 1999 với quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự 2015 về tổng hợp hình phạt cho thấy có sự thay đổi về kỹ thuật lập pháp, về thẩm quyền tổng hợp hình phạt của nhiều bản án qua mỗi thời kỳ là có sự khác nhau. Cụ thể, Bộ luật Hình sự năm 1999 đến Bộ luật Hình sự 2015 quy định thẩm quyền tổng hợp hình phạt của nhiều bản án không còn là do “Tòa án ra quyết định tổng hợp” như Bộ luật Hình sự 1985 mà được quy định rõ là “Chánh án Tòa án ra quyết định tổng hợp”. Theo quy định tại Điều 56 BLHS năm 2015 áp dụng đối với người bị kết án chưa chấp hành hoặc chấp hành chưa xong một bản án lại bị xét xử về một tội xảy ra trước hoặc sau khi có bản án đó. Việc tổng hợp hình phạt được tiến hành trên cơ sở các hình phạt cùng loại và khác loại, tổng hợp hình phạt chính và hình phạt bổ sung theo những nguyên tắc nhất định của luật hình sự. Một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án.

Về thi hành hình phạt đã tuyên trong bản án của Tòa án: trước đây, tại Điều 226 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy định về những bản án và quyết định được thi hành như sau:

“1- Những bản án và quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm:

a) Những bản án và quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm;

b) Những bản án và quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;

c) Những bản án và quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;

d) Những quyết định của Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”.

Đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, tại Điều 255 quy định:

 “Những bản án và quyết định được thi hành:

1. Những bản án và quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm:

a) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;

b) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;

c) Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”.

 

Điều 364 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền và thủ tục ra quyết định thi hành án:

1. Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.

2. Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác thi hành của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thì Chánh án Tòa án được ủy thác phải ra quyết định thi hành án.

….”

Như vậy, sau khi có quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án thì có phải ban hành quyết định thi hành án phạt tù của quyết định tổng hợp hình phạt này hay không, nếu có thì sẽ thuộc thẩm quyền của ai? Vấn đề này trước đây, tại mục 1 phần II Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17 tháng 3 năm 1999 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh Thi hành án phạt tù, thì hồ sơ thi hành án phạt tù của Tòa án bước đầu phải có bản sao bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật và quyết định thi hành bản án, quyết định đó của Toà án. Ngoài hai loại giấy tờ này, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà có những loại giấy tờ khác”. Theo biểu mẫu ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, tại các Quyết định thi hành án hình phạt tù (mẫu số 2, 3a, 3b, 3c) hướng dẫn ghi Thi hành án hình phạt tại Bản án có hiệu lực pháp luật được thi hành. Trong thực tiễn, trước đây khi có quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền sẽ ra quyết định thi hành án đối với quyết định tổng hợp hình phạt này.

Điều 364 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định Chánh án Tòa án có thẩm quyền đã ra quyết định thi hành án đối bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm. Vậy, đối với quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án thì điều luật không đề cập tới, không quy định ra quyết định thi hành án đối với quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án nên chỉ ra quyết định thi hành án đối với từng bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.

Ngày 10 tháng 9 năm 2024, Tòa án nhân dân tối cao ban hành văn bản Giải đáp số 163/TANDTC-PC giải đáp một số vướng mắc trong xét xử, tại mục 3 phần II có nêu: Theo quy định tại khoản 1 Điều 364 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) thì Tòa án có thẩm quyền đã ra quyết định thi hành án đối với mỗi bản án có hiệu lực pháp luật. Do đó, Tòa án không ra quyết định thi hành án đối với quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án”. Như vậy, theo hướng dẫn này thì trong trường hợp có nhiều bản án có hiệu lực pháp luật đối với một người bị kết án, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án đối với mỗi bản án có hiệu lực pháp luật mà không ra quyết định thi hành án đối với quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.

2. Một số hạn chế, vướng mắc

Khi áp dụng Điều 364 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Công văn 163/TANDTC-PC ngày 10 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân tối cao thì trên thực tiễn còn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc sau đây:

Thứ nhất, trường hợp một người bị kết án bởi nhiều bản án có hiệu lực khác nhau mà tổng cộng các hình phạt tù có thời hạn của các bản án đó là trên 30 năm tù. Tuy nhiên, theo quy định tại các điều 55 và 56 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì quyết định tổng hợp hình phạt của họ chỉ là 30 năm tù. Cụ thể:

Điểm a khoản 1 Điều 55 quy định:

“1. Đối với hình phạt chính:

a) Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;”.

Điều 56 quy định:

“1. Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

2. Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này…”.

Như vậy, ở đây có sự thiếu thống nhất, theo đó, nếu tổng hợp hình phạt tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá 30 năm; tuy nhiên, theo quy định tại Điều 364 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Công văn 163/TANDTC-PC, việc chấp hành hình phạt với từng quyết định thi hành hình phạt tù của từng bản án thì họ lại phải chấp hành các hình phạt của các bản án là trên 30 năm tù.

Ví dụ: một người bị kết án tại nhiều bản án có hiệu lực pháp luật như sau: bản án thứ nhất xử phạt 20 năm tù và bản án thứ hai xử phạt họ 19 năm tù, nếu người bị kết án thi hành hình phạt của từng bản án tức là họ phải thi hành một quyết định thi hành hình phạt 20 năm tù và một quyết định thi hành hình phạt 19 năm tù. Như vậy, hình phạt của cả hai quyết định thi hành án là 39 năm tù. Tuy nhiên, căn cứ Điều 55 và Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì hai bản án này sẽ được Chánh án Tòa án có thẩm quyền quyết định tổng hợp hình phạt là 30 năm tù. Do đó, trong quá trình người bị kết án chấp hành hình phạt sẽ bị vướng mắc giữa hình phạt của cả hai quyết định thi hành án đó là 39 năm nhưng hình phạt tổng hợp theo quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với họ chỉ là 30 năm tù.

Thứ hai, khi có nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật và có quyết định tổng hợp của nhiều bản án mà không có quyết định thi hành án đối với quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án thì người bị kết án sẽ chấp hành án đối với nhiều quyết định thi hành án của nhiều bản án. Vậy người bị kết án sẽ chấp hành hình phạt theo quyết định thi hành án nào trước và theo quyết định nào sau? Tại một thời điểm hiện tại thì xác định người bị kết án đang chấp hành hình phạt của bản án nào để từ đó đối chiếu với nội dung của bản án đó mà xác định điều kiện xếp loại thi đua trong quá trình chấp hành hình phạt tù đối với họ.

Thứ ba, với mỗi mức hình phạt khác nhau thì điều kiện để xét giảm thời hạn hình phạt tù cho người bị kết án cũng khác nhau và việc xác định thời điểm chấp hành hình phạt tù đối với từng quyết định thi hành hình phạt của từng bản án sẽ tính từ khi nào? Từ đó sẽ dẫn tới khó khăn cho công tác xem xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với phạm nhân trong quá trình chấp hành hình phạt, đồng thời cũng dẫn đến một số vướng mắc cho các cơ quan trong hệ thống tổ chức thi hành án hình sự trong việc tổ chức thi hành án hình sự đối với người bị kết án.

3. Đề xuất, kiến nghị

Từ những tồn tại, vướng mắc nêu trên và thực tiễn áp dụng pháp luật, tác giả đề xuất, kiến nghị như sau: Để bảo đảm tính công bằng xã hội, thể hiện nguyên tắc trừng trị trong chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội, kiến nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành Nghị quyết hướng dẫn quy định về tổng hợp hình phạt và ban hành quyết định thi hành án đối với quyết định tổng hợp hình phạt. Tác giả đề xuất, nội dung hướng dẫn của Nghị quyết được xấy dựng trên cơ sở kế thừa những điểm tiến bộ của Công văn 163/TANDTC-PC ngày 10 tháng 9 năm 2024; đồng thời cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện nội dung hướng dẫn đối với các trường hợp người bị kết án phải thi hành hình phạt của nhiều bản án khác nhau và điều kiện khi xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với họ. Tác giả cho rằng, cần thiết ban hành quyết định thi hành án đối với quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án để quá trình tổ chức thi hành án cho người bị kết án tránh những vướng mắc, bất cập nêu trên.

 

 

 

ĐINH VĂN LONG (Thẩm phán bậc 2, TAND Khu vực 7, Đà Nẵng)

Ảnh: nguồn Internet