Thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính và một số kiến nghị
Tại phiên họp ngày 15/12/2017, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đã giao TANDTC triển khai nghiên cứu, xây dựng Đề án Đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hành chính; đề xuất việc hoàn thiện cơ sở pháp lý và các điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và yêu cầu thực tiễn. Để có cơ sở thực tiễn xây dựng Đề án, TANDTC đang triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại thành phố Hải Phòng. Bài viết sau đây xin giới thiệu nội dung chính của hoạt động thí điểm và đưa ra một số kiến nghị nhằm tổ thức thực hiện thành công hoạt động này.
1.Sự cần thiết tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, hành chính
Trong những năm qua, các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tiếp tục có xu hướng gia tăng mạnh; thẩm quyền của Tòa án được mở rộng làm cho số lượng các vụ án mà Tòa án phải thụ lý, giải quyết tăng hơn nhiều so với các năm trước, tính chất các vụ việc ngày càng phức tạp; số lượng các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ngày càng nhiều, trong bối cảnh số lượng biên chế chưa đáp ứng được yêu cầu so với cơ cấu tổ chức, bộ máy, nhiệm vụ, thẩm quyền của các Tòa án.
Trước tình hình trên, hòa giải, đối thoại trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với việc giải quyết các vụ án tại Tòa án, là phương thức hiệu quả để bảo đảm quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Hòa giải thành, đối thoại thành giúp giải quyết triệt để, hiệu quả các tranh chấp, khiếu kiện mà không phải mở phiên tòa xét xử; tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của đương sự và Nhà nước; tạo thuận lợi cho việc thi hành án; hạn chế việc kháng cáo, kháng nghị; nâng cao tỷ lệ và rút ngắn thời gian giải quyết vụ án. Kết quả hòa giải còn có ý nghĩa làm rõ yêu cầu, tình tiết, quan hệ tranh chấp giữa các đương sự nhằm giải quyết đúng đắn vụ án trong trường hợp phải mở phiên tòa xét xử; từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Tòa án. Đồng thời, hòa giải góp phần hàn gắn những rạn nứt, ngăn ngừa các tranh chấp trong tương lai giữa các đương sự; nâng cao ý thức pháp luật của người dân; giữ gìn ổn định, trật tự xã hội, tạo sự đồng thuận và xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân.
Thực hiện kết luận của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Kế hoạch số 11/KH-TANDTC ngày 22/01/2018 triển khai thí điểm về hòa giải, đối thoại đối với các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng và 09 Tòa án nhân dân cấp huyện của Thành phố,[1] thời gian từ tháng 3 đến hết tháng 8 năm 2018. Để triển khai việc thực hiện thí điểm, Tòa án nhân dân tối cao đã có Công văn số 48/TANDTC-PC ngày 09/3/2018 hướng dẫn triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại thành phố Hải Phòng và Công văn số 72/TANDTC-PC ngày 16/4/2018 hướng dẫn bổ sung Công văn số 48/TANDTC-PC.
2.Thành lập Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án
TAND Tp Hải Phòng thành lập một Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án; mỗi Tòa án quận, huyện được lựa chọn thí điểm thành lập một Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Thành phần của Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án (sau đây gọi tắt là Trung tâm) gồm: Giám đốc Trung tâm là Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án thực hiện thí điểm, Phó Giám đốc Trung tâm là Phó Chánh án hoặc Thẩm phán Tòa án thực hiện thí điểm và các Hòa giải viên, Đối thoại viên
Số lượng Hòa giải viên, Đối thoại viên của Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án Tp Hải Phòng từ 10 người đến 15 người. Số lượng Hòa giải viên, Đối thoại viên của Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án các quận, huyện là từ 5 đến 10 người. Trong quá trình thí điểm, căn cứ vào số lượng các vụ án dân sự, vụ án hành chính phải giải quyết và tình hình thực tế tại địa phương, Chánh án TAND Tp Hải Phòng quyết định số lượng Hòa giải viên, Đối thoại viên của mỗi Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án có nhiệm vụ: (i) hòa giải các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động (sau đây gọi tắt là tranh chấp dân sự), đối thoại các khiếu kiện hành chính trước khi Tòa án thụ lý, giải quyết trừ những tranh chấp, khiếu kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính không được hòa giải, đối thoại hoặc không tiến hành hòa giải, đối thoại được; (ii) tham gia tư vấn về hòa giải, đối thoại trong quá trình Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự, vụ án hành chính (nếu được yêu cầu).
Tòa án thực hiện thí điểm sẽ phân công người thực hiện các nhiệm vụ hành chính, tư pháp, ghi biên bản hòa giải, đối thoại (khi có yêu cầu); công nhận kết quả hòa giải thành theo thủ tục việc dân sự, công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn khi có yêu cầu; trả lại đơn khởi kiện khi người khởi kiện rút đơn khởi kiện; nhận lại và xem xét thụ lý vụ án khi hòa giải, đối thoại không thành. Đồng thời, bố trí phòng làm việc, trang thiết bị, phương tiện làm việc cần thiết, chi trả thù lao cho hoạt động của Hòa giải viên, Đối thoại viên.
Phòng làm việc của Trung tâm hòa giải, đối thoại được đặt tại TAND nơi thực hiện thí điểm hoặc địa điểm khác do Tòa án thực hiện thí điểm sắp xếp, bố trí. Phòng hòa giải, đối thoại được bố trí trên cùng một mặt phẳng, sắp xếp theo hình thức bàn tròn; bàn, ghế trong phòng được thiết kế theo kiểu dáng bàn, ghế văn phòng, tạo sự thân thiện, gần gũi.
3.Quy định cụ thể về Hòa giải viên, Đối thoại viên
- a) Những người đáp ứng đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, lựa chọn là Hòa giải viên, Đối thoại viên:
– Nguyên là cán bộ trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, Thi hành án, cơ quan Đảng và nhà nước đã nghỉ hưu, nguyên Hội thẩm nhân dân, Luật sư hoặc những người khác có kiến thức pháp luật;
– Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín trong cộng đồng dân cư;
– Tự nguyện thực hiện nhiệm vụ hòa giải, đối thoại.
- b) Quyền của Hòa giải viên, Đối thoại viên:
– Tiến hành hòa giải các tranh chấp dân sự, đối thoại các khiếu kiện hành chính trước khi Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự, tố tụng hành chính; tham gia tư vấn, hỗ trợ Thẩm phán hòa giải trong tố tụng dân sự, đối thoại trong tố tụng hành chính;
– Tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ; đề nghị người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền, nghĩa vụ liên quan cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến vụ việc hòa giải, đối thoại;
– Được hưởng thù lao khi thực hiện hoạt động hòa giải, đối thoại.
- c) Nghĩa vụ của Hòa giải viên, Đối thoại viên:
– Từ chối tiến hành hòa giải, đối thoại nếu bản thân có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ việc hòa giải, đối thoại hoặc vì lý do khác dẫn đến không thể bảo đảm khách quan, vô tư trong quá trình hòa giải, đối thoại;
– Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các bên liên quan nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội;
– Tuân thủ pháp luật, độc lập, vô tư, khách quan, trung thực;
– Không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các bên phải thoả thuận không phù hợp với ý chí của họ;
– Đảm bảo bí mật thông tin về vụ việc mà mình tham gia hòa giải, đối thoại trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
– Thực hiện các yêu cầu, đề nghị, hướng dẫn của Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm hòa giải, đối thoại.
Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án hoạt động mang tính tự quản, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hàng tháng, mỗi Hòa giải viên, Đối thoại viên được thanh toán 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). Ngoài ra, trường hợp hòa giải, đối thoại thành, Hòa giải viên, Đối thoại viên được thanh toán 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng)/01 vụ việc.[2]
4.Trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại tại trung tâm hòa giải, đối thoại
Ngay sau khi nhận đơn khởi kiện vụ án dân sự, đơn khởi kiện vụ án hành chính và tài liệu, chứng cứ kèm theo (sau đây gọi tắt là hồ sơ vụ việc), Bộ phận hành chính – tư pháp của Tòa án phải ghi vào sổ nhận đơn và chuyển đơn khởi kiện cho Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án, trừ những trường hợp không được hòa giải, đối thoại theo quy định của BLTTDS, LTTHC hoặc khi nộp đơn khởi kiện, có ý kiến không đồng ý hòa giải, đối thoại tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ việc, Giám đốc Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án phải phân công một Hòa giải viên, Đối thoại viên xem xét, tiến hành hòa giải, đối thoại.
Sau đó, Hòa giải viên, Đối thoại viên sẽ lập hồ sơ, nghiên cứu vụ việc; xây dựng kế hoạch hòa giải, đối thoại; mời thành phần tham gia phiên hòa giải, đối thoại. Việc hòa giải, đối thoại được tiến hành theo thủ tục sau đây:
- a) Tiến hành hòa giải, đối thoại:
Khi tiến hành hòa giải, đối thoại, Hòa giải viên, Đối thoại viên thực hiện các yêu cầu và kỹ năng sau:
a1) Hòa giải viên, Đối thoại viên giải thích, phổ biến đầy đủ, khách quan các quy định của pháp luật liên quan đến việc hòa giải, đối thoại cho các bên; phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải, đối thoại thành, hòa giải, đối thoại không thành; những lợi ích của việc hòa giải, đối thoại thành tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án so với việc Tòa án thụ lý, giải quyết theo quy định của pháp luật (án phí, các chi phí tố tụng khác, chi phí thi hành án, bí mật thông tin,…); yêu cầu các bên xác nhận việc đồng ý hòa giải, đối thoại và lập Biên bản về việc các bên đồng ý hòa giải, đối thoại.
a2) Các bên trình bày theo thứ tự như sau:
– Người khởi kiện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện trình bày nội dung tranh chấp, yêu cầu của họ; đề xuất những vấn đề muốn hòa giải, đối thoại;
– Người bị kiện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày ý kiến của mình về nội dung tranh chấp, yêu cầu của người khởi kiện; đề xuất quan điểm về những vấn đề muốn hòa giải, đối thoại;
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày yêu cầu của họ (nếu có); đề xuất quan điểm về những vấn đề muốn hòa giải, đối thoại;
– Người khác tham gia phiên hòa giải, đối thoại (nếu có) trình bày ý kiến.
Sau khi người tham gia phiên hòa giải, đối thoại trình bày ý kiến mà còn có nội dung chưa rõ, chưa đầy đủ thì Hòa giải viên, Đối thoại viên yêu cầu họ trình bày bổ sung ngay về nội dung chưa rõ, chưa đầy đủ đó.
Hòa giải viên, Đối thoại viên tóm tắt lại nội dung vụ việc, yêu cầu của các bên; hỏi lại các bên về nội dung mà Hòa giải viên, Đối thoại viên đã tóm tắt lại.
a3) Hòa giải viên, Đối thoại viên xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và đề nghị các bên trình bày bổ sung về vấn đề chưa thống nhất nếu có nội dung chưa rõ; phân tích nội dung vụ việc, quan hệ pháp luật tranh chấp, yêu cầu cụ thể của các bên, nguyên nhân phát sinh tranh chấp, các quy định có liên quan đến nội dung tranh chấp để các bên tự đánh giá được phần đúng, phần sai của mình để đi đến thỏa thuận với nhau những vấn đề chưa thống nhất.
a4) Để tiếp tục hòa giải, đối thoại những vấn đề các bên chưa thống nhất, Hòa giải viên, Đối thoại viên cần thực hiện những việc sau đây:
– Nêu đầy đủ, ngắn gọn, rõ ràng nội dung chưa thống nhất cần tiếp tục hòa giải, đối thoại;
– Đưa ra một số phương án giải quyết tranh chấp để các bên lựa chọn;
– Phân tích lợi ích của việc giữ gìn mối quan hệ, tình cảm giữa các bên (tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng, quan hệ láng giềng, quan hệ đối tác kinh doanh,…), nhằm tác động tâm lý tích cực giúp họ nghĩ đến quan hệ, tình cảm mà hòa giải, đối thoại; đồng thời quan sát, nắm bắt kịp thời diễn biến tâm tư của các bên, chọn đúng thời điểm tác động đến suy nghĩ, nhận thức của mỗi bên (nếu cần thiết);
– Trường hợp đa số các bên đã thỏa thuận được việc giải quyết tranh chấp, chỉ một hoặc một số người không thiện chí thỏa thuận hoặc còn một số điểm chưa thống nhất thì Hòa giải viên, Đối thoại viên có thể giải thích, thuyết phục riêng để đạt được sự thống nhất.
a5) Trường hợp nội dung các bên đã thống nhất có vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì Hòa giải viên, Đối thoại viên phải giải thích quy định của pháp luật, chuẩn mực đạo đức liên quan để các bên thỏa thuận lại.
- b) Lập Biên bản hòa giải, Biên bản đối thoại:
Kết thúc quá trình hòa giải, đối thoại, Hòa giải viên, Đối thoại viên lập Biên bản hòa giải, Biên bản đối thoại với các nội dung sau:
– Ngày, tháng, năm, địa điểm tiến hành hòa giải, đối thoại;
– Thành phần tham gia phiên hòa giải, đối thoại;
– Ý kiến của các bên về vụ việc;
– Những nội dung đã được các bên thống nhất, không thống nhất;
– Chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên và của Hòa giải viên, Đối thoại viên.
Những người tham gia phiên hòa giải, đối thoại có quyền được xem biên bản hòa giải, đối thoại; yêu cầu sửa đổi, bổ sung và ký xác nhận hoặc điểm chỉ.
Thời gian hòa giải, đối thoại là 20 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ. Trường hợp vụ việc phức tạp, cần thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc theo yêu cầu chính đáng của các bên, Hòa giải viên, Đối thoại viên có thể kéo dài việc tiến hành hòa giải, đối thoại nhưng không quá 10 ngày. Trường hợp hết thời hạn này mà các bên liên quan đồng ý thì Hòa giải viên, Đối thoại viên có thể tiếp tục tiến hành hòa giải, đối thoại nhưng không quá thời hạn 02 tháng kể từ ngày được phân công hòa giải, đối thoại.
5.Xử lý kết quả hòa giải, đối thoại
– Trường hợp qua hòa giải, đối thoại, người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện thì tại Biên bản hòa giải, Biên bản đối thoại ghi rõ ý kiến của người khởi kiện về việc rút đơn khởi kiện. Hòa giải viên, Đối thoại viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án, chuyển ngay hồ sơ vụ việc và Biên bản hòa giải, Biên bản đối thoại cho Tòa án. Tòa án trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, người yêu cầu.
– Trường hợp qua hòa giải, các bên thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết và yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành thì Hòa giải viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án, chuyển ngay hồ sơ vụ việc và Biên bản hòa giải cho Tòa án. Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án theo quy định tại Chương XXXIII của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trường hợp ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà sau khi hòa giải, vợ, chồng không đồng ý đoàn tụ nhưng thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và yêu cầu Tòa án công nhận thì Hòa giải viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án, chuyển ngay hồ sơ vụ việc và Biên bản hòa giải cho Tòa án. Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định tại Chương XXVIII của Bộ luật Tố tụng dân sự.
– Trường hợp sau khi hòa giải, đối thoại các bên không thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết thì tại Biên bản hòa giải, Biên bản đối thoại phải ghi rõ ý kiến của các bên, những nội dung các bên đã thống nhất, không thống nhất. Hòa giải viên, Đối thoại viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án, chuyển ngay hồ sơ vụ việc và Biên bản hòa giải, Biên bản đối thoại cho Tòa án để xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.[3]
– Trường hợp qua đối thoại mà người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi kiện hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện cam kết rút đơn khởi kiện thì Đối thoại viên lập biên bản về việc cam kết của họ. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, người bị kiện phải gửi cho Trung tâm quyết định hành chính mới hoặc thông báo về việc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện phải gửi cho Trung tâm văn bản rút đơn khởi kiện. Hết thời hạn này mà một trong các bên không thực hiện cam kết của mình thì Đối thoại viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm, chuyển ngay hồ sơ vụ việc và Biên bản đối thoại cho Tòa án để xem xét thụ lý, giải quyết theo quy định của LTTHC.
Trường hợp nhận được quyết định hành chính mới thì Trung tâm phải thông báo cho các bên khác biết. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Trung tâm, nếu các bên không có ý kiến phản đối thì Đối thoại viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm, chuyển ngay hồ sơ vụ việc, Biên bản đối thoại, quyết định hành chính mới cho Tòa án. Tòa án ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành.
6.Một số kiến nghị
Trong thời gian vừa qua, các hoạt động phục vụ cho việc triển khai thí điểm đổi mới công tác hòa giải, đối thoại đã được triển khai nghiêm túc, bài bản, đồng bộ, có sáng tạo; các Hòa giải viên, Đối thoại viên có trình độ chuyên môn tốt, nhiệt tình, nắm vững kỹ năng hòa giải, đối thoại. Chính vì vậy, kết quả triển khai thí điểm hòa giải, đối thoại bước đầu là rất tích cực.[4] Tuy nhiên, để bảo đảm thí điểm thành công, tác giả kiến nghị một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần sự quan tâm, ủng hộ của các ban, ngành, đoàn thể, nhất là Viện kiểm sát nhân dân các cấp và quần chúng nhân dân để tổ chức thành công thí điểm
Theo các Công văn số 48/TANDTC-PC ngày 09/3/2018 và Công văn số 72/TANDTC-PC ngày 16/4/2018 của TANDTC, bên cạnh việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự và tố tụng hành chính, TAND Tp Hải Phòng, một số TAND cấp huyện và các Trung tâm hòa giải, đối thoại sẽ áp dụng một số thủ tục có tính đặc thù nhằm thí điểm mô hình hòa giải, đối thoại mới tại Tòa án. Chính vì vậy, sự quan tâm, ủng hộ, phối hợp chặt chẽ của VKSND các cấp trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp tại Tòa án và sự ủng hộ của người dân đối với hoạt động thí điểm là rất quan trọng.
Thứ hai, nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị trong đối thoại các vụ án hành chính
Qua phản ánh và số liệu thống kê của các Trung tâm hòa giải, đối thoại, còn nhiều cơ quan chưa tích cực tham gia vào các hoạt động đối thoại, có trường hợp còn đùn đẩy, né tránh, gây khó khăn cho công tác đối thoại tại các Trung tâm, làm cho hiệu quả công tác thí điểm đối thoại trong các khiếu kiện hành chính chưa như mong đợi. Vì vậy, Thủ trưởng các Sở, ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và các đơn vị có liên quan của Thành phố Hải Phòng cần nhận thức, quán triệt tinh thần cải cách đã được Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đề ra; thực hiện nghiêm túc việc tham gia trực tiếp hoặc ủy quyền cho người có thẩm quyền tham gia đầy đủ, có trách nhiệm vào hoạt động đối thoại trong các khiếu kiện hành chính tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng và hướng dẫn của TANDTC về công tác thí điểm, góp phần nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
Thứ ba, nâng cao kỹ năng hòa giải, đối thoại của các Hòa giải viên, Đối thoại viên
Thực tiễn hoạt động của các Trung tâm hòa giải, đối thoại cho thấy, kỹ năng hoà giải, đối thoại của các Hoà giải viên, Đối thoại viên chưa đồng đều; có một số Hoà giải viên, Đối thoại viên chưa có thực tiễn về công tác này. Vì vậy, cần tiếp tục tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, kỹ năng hoà giải cho các Hoà giải viên, Đối thoại viên để nâng cao hiệu quả hoạt động thí điểm trong thời gian tới.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định của pháp luật về hòa giải, đối thoại, tiến tới xây dựng Luật về hòa giải tại Tòa án.
Hệ thống các quy định của pháp luật về hòa giải, đối thoại hiện nay là tương đối đầy đủ, được sửa đổi, bổ sung trong quá trình cải cách tư pháp. Tuy nhiên, còn nhiều quy định chưa hoàn thiện, đặc biệt là quy định về việc Tòa án công nhận kết quả đối thoại thành trong tố tụng hành chính. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về hòa giải, đối thoại, tiến tới xây dựng Luật về hòa giải tại Tòa án, trong đó quy định cụ thể về các vụ việc được hòa giải, quy trình hòa giải, tổ chức bộ máy và các điều kiện bảo đảm thực hiện.
Thứ năm, tích cực nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm quốc tế về hòa giải, đối thoại
Ở hầu hết các quốc gia có nền tư pháp phát triển, hòa giải, thương lượng là chế định được quy định trong pháp luật về tố tụng dân sự và được nhìn nhận là phương thức phổ biến, hữu hiệu và được khuyến khích áp dụng để giải quyết các tranh chấp; việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án là biện pháp cuối cùng khi thương lượng, hòa giải không thực hiện được.[5] Đây là những kinh nghiệm quý báu để Việt Nam nghiên cứu, học tập nhằm xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về hòa giải, đối thoại bên cạnh Tòa án trong thời gian tới./.
[1] Các đơn vị thực hiện thí điểm: TAND thành phố Hải Phòng, TAND các quận, huyện: Ngô Quyền, Hồng Bàng, Lê Chân, Hải An, Kiến An, Thủy Nguyên, An Dương, Kiến Thụy, Tiên Lãng.
[2] Theo Quy chế chi tiêu trong hoạt động triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại thành phố Hải Phòng ban hành kèm theo Quyết định số 29/QĐ-CA ngày 30/3/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
[3] Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, vụ án hành chính được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Ngày khởi kiện được xác định theo quy định tại Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 120 Luật Tố tụng hành chính. Thời gian hòa giải, đối thoại tại Trung tâm hòa giải, đối thoại không tính vào thời hạn xử lý đơn khởi kiện quy định tại Điều 191 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 121 Luật Tố tụng hành chính. Thời hạn xử lý đơn khởi kiện được tính kể từ ngày Tòa án nhận lại đơn khởi kiện do Hòa giải viên, Đối thoại viên chuyển đến.
[4] Xem thêm: Báo cáo số 10/BC-TANDTC ngày 02/4/2018 của Tòa án nhân dân tối cao về kết quả triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại thành phố Hải Phòng (từ ngày 19 đến ngày 30/3/2018).
[5] Liên bang Nga, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Canada, Hoa Kỳ, Thái Lan…
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
1 Bình luận
Phạm quốc Vượng
00:38 26/11.2024Trả lời