Tìm hiểu về án lệ ở Indonesia
Indonesia là thuộc địa của Hà Lan trong khoảng 350 năm (có thời gian gián đoạn khi bị Nhật Bản chiếm đóng trong thời kỳ Thế chiến thứ hai), do vậy hệ thống pháp luật của nước này chịu nhiều ảnh hưởng từ hệ thống pháp luật của Hà Lan. Dưới đâybài viết tìm hiểu về án lệ ở Indonesia.
Hệ thống Tòa án ở Indonesia
Hệ thống Tòa án ở Indonesia bao gồm : Tòa án tối cao, ở dưới là bốn nhánh Tòa án : Tòa án thẩm quyền chung, Tòa án quân sự, Tòa án tôn giáo và Tòa án hành chính . Các nhánh Tòa án này gồm hai cấp xét xử : các Tòa án sơ thẩm và các Tòa án phúc thẩm (có 67 tòa phúc thẩm và 706 tòa sơ thẩm ,chưa kể các tòa án “chuyên biệt”). Tòa án Hiến pháp nằm ngoài hệ thống Tòa án này.
Tòa án thẩm quyền chung xét xử phần lớn các vụ án dân sự,hình sự và thương mại . Ngoài việc xét xử các loại vụ án này, trong hệ thống tòa án thẩm quyền chung còn có các tòa án “chuyên biệt “với trụ sở riêng , quy trình xét xử riêng và có các thẩm phán chuyên môn riêng. Hầu hết các vụ án xét xử ở các tòa án chuyên biệt này sẽ kháng cáo lên tòa phúc thẩm của tòa án thẩm quyền chung, tuy nhiên ở một số tòa được kháng cáo trực tiếp lên Tòa án tối cao. Các tòa án chuyên biệt gồm:
-Tòa án chống tham nhũng, chỉ có 01 tòa ở trung tâm Jakarta xét xử các vụ án tham nhũng liên quan đến các cán bộ thi hành pháp luật hoặc nhân viên chính phủ.
-Tòa án thương mại gồm 5 tòa, có thẩm quyền xét xử chủ yếu các vụ phá sản và sở hữu trí tuệ.
-Tòa án nhân quyền được thành lập ở các trung tâm địa phương để xét xử các vụ án về tội diệt chủng hoặc chống lại loài người ,bao gồm cả những tội phạm xảy ra ngoài lãnh thổ Indonesia do công dân Indonesia thực hiện.
-Tòa án quan hệ lao động gồm 33 tòa, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến lao động sau khi đã áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác nhưng không thành công.
-Tòa án đánh bắt cá gồm 5 tòa , có thẩm quyền xét xử những vi phạm liên quan đến việc đánh bắt cá.
-Tòa án thuế, chỉ có 01 tòa ở Jakarta, giải quyết các tranh chấp về thuế giữa người nộp thuế và các cơ quan thuế nhà nước.
Trụ sở Tòa án Tối cao Indonesia
Tòa án quân sự gồm bốn cấp tòa: Tòa án quân sự phúc thẩm, Tòa án quân sự thông thường, Tòa án quân sự cấp cao và Tòa án chiến tranh. Tòa án quân sự thông thường xét xử các vụ án hình sự mà bị cáo từ cấp đại úy trở xuống,Tòa án quân sự cấp cao xét xử các vấn đề hành chính trong quân đội và vụ án hình sự mà bị cáo là thiếu tá trở lên. Cả tòa án quân sự cấp cao và tòa quân sự phúc thẩm đều có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án của tòa án quân sự thông thường. Tòa án quân sự phúc thẩm cũng xét xử phúc thẩm các bản án hành chính quân sự của tòa án quân sự cấp cao.
Đáng chú ý là : quân nhân phạm tội nếu vi phạm pháp luật quân sự thì thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự,nếu vi phạm pháp luật hình sự chung thì sẽ do tòa án thẩm quyền chung xét xử.
Tòa án tôn giáo có thẩm quyền xét xử người Hồi giáo trong các lĩnh vực được quy định trong luật đạo Hồi ,như kết hôn,thừa kế, và các vấn đề tài chính của đạo Hồi (Indonesia có 86,70% dân số theo đạo Hồi).
Tòa án hành chính xét xử các tranh chấp giữa công dân và chính phủ về những vấn đề được cho là vi phạm pháp luật hoặc lạm dụng chức quyền của viên chức và cơ quan nhà nước. Tuy nhiên Tòa án hành chính chỉ xét xử sau khi đã áp dụng hết các biện pháp giải quyết tranh chấp hành chính.
Tòa án tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm (xét xử phá án) các bản án của các tòa phúc thẩm của bốn nhánh tòa án nêu trên và những bản án của một số tòa án chuyên biệt được kháng cáo trực tiếp lên. Trên lý thuyết, Tòa án tối cao chỉ xem xét lại vụ án về mặt pháp luật, xác định xem các tòa án cấp dưới có áp dụng đúng luật hay không.Tuy nhiên, trên thực tế Tòa án tối cao vẫn thường xem xét lại vụ án cả về những tình tiết và thậm chí còn triệu tập cả nhân chứng.Theo quy định tại Điều 24A (khoản 1) của Hiến pháp và Điều 31 (khoản 4) Luật về Tòa án tối cao, Tòa án tối cao cũng có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của các văn bản dưới luật, như các pháp lệnh của chính phủ, của tổng thống và sắc lệnh của bộ trưởng.
Nếu xét thấy không phù hợp với luật,Tòa án tối cao sẽ tuyên bố văn bản đó vô hiệu. Cơ quan chính phủ ban hành văn bản luật đó phải ra quyết định hủy bỏ. Với thẩm quyền này,Tòa án tối cao có vai trò quan trọng trong việc hình thành án lệ.
Tòa án Hiến pháp được thành lập năm 2003 (theo luật Tòa án Hiến pháp ngày 13-8-2003).Theo quy định tại Điều 24C (khoản 1 và khoản 2) của Hiến pháp ,Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của một đạo luật,giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước theo quy định của Hiến pháp,quyết định việc giải tán các đảng phái chính trị và giải quyết tranh chấp kết quả của các cuộc tổng tuyển cử .Theo đề nghị của Hội đồng đại biểu nhân dân, Tòa án hiến pháp cũng có quyền xét xử Tổng thống hoặc Phó Tổng thống có hành động phản quốc ,tham nhũng hoặc nhận hối lộ ,phạm tội nghiêm trọng hoặc có hành vi sai trái khác ,cũng như có thẩm quyền xem xét và quyết định xem họ có đủ điều kiện để nắm giữ chức vụ theo yêu cầu của Hiến pháp hay không.
Thẩm phán với việc giải thích pháp luật
Ở các nước theo truyền thống luật dân sự như Indonesia ,Tòa án (thẩm phán) không có quyền giải thích pháp luật, đây là thẩm quyền của cơ quan lập pháp.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy là các quy định của luật pháp không phải là không có sai sót cũng như không thể bao quát hết những sự việc xảy ra trong thực tế.
Do vậy, Thẩm phán cần phải áp dụng luật sao cho phù hợp với vụ việc cụ thể đã xảy ra để “hoàn chỉnh công việc của các nhà làm luật “ và “giải quyết các điểm chưa rõ “ hoặc “bổ sung những điều còn thiếu” trong luật pháp, đây là một nguyên tắc được thừa nhận ở nhiều nước theo truyền thống luật dân sự ,kể cả ở Indonesia. Tại Điều 16 (khoản 1) Luật về tổ chức Tòa án Indonesia năm 2004 quy định như sau: “Tòa án không được từ chối việc xét xử và quyết định một vụ án được đưa ra trước tòa với lý do chưa có luật áp dụng hoặc luật không rõ ràng; thay vào đó,Tòa án bắt buộc phải tiến hành xét xử vụ án”. Với quy định này,thẩm phán Indonesia đã có quyền giải thích những quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ án.
Ở Indonesia, thẩm phán thực hiện việc giải thích luật theo bốn cách: giải thích theo nghĩa đen, theo lịch sử, theo sự tương tự và theo mục đích luận.
Các thẩm phán thường bắt đầu giải thích luật theo nghĩa đen, xem xét câu chữ của điều luật để xác định ý nghĩa của các từ được ghi trong điều luật bằng cách xem xét ý nghĩa thông thường của các từ đó. Có thể sử dụng từ điển hoặc nhờ các chuyên gia ngôn ngữ giúp xác định nghĩa của các từ.
Nếu giải thích theo ngôn từ không làm rõ ngữ nghĩa của điều luật, thẩm phán phải xem xét quá trình soạn thảo luật đó bằng cách đọc các biên bản thảo luận tại nghị viện, bao gồm cả những trao đổi giữa các Bộ trưởng và các ủy ban thuộc nghị viện để xác định ý chí của nhà làm luật khi đưa ra quy định pháp luật đó.
Thẩm phán cũng có thể giải thích các điều luật không rõ ràng bằng cách xem xét các điều khoản của các luật khác có liên quan để đưa ra nhận định phù hợp. Một thẩm phán nổi tiếng của Tòa án tối cao trong thập niên 1980, khi giải thích luật bằng cách tương tự, đã cho rằng những người đàn ông thuyết phục phụ nữ quan hệ tình dục với mình bằng cách vờ kết hôn, có thể bị kết án theo điều khoản về tội trộm cắp của Bộ luật hình sự do người đó đã “lấy đi” danh dự của người phụ nữ bằng cách lừa gạt họ. Lập luận này được chấp nhận trong một thời gian nhưng sau đó bị Tòa án tối cao bác bỏ vào năm 1990 với lý do danh dự không phải là đối tượng của tội trộm cắp.
Giải thích theo mục đích luận, trong trường hợp nhận thấy quy định của điều luật không phù hợp với thực tế hiện tại, thẩm phán sẽ xem xét đưa ra mục đích xã hội mới phù hợp với thực tế xã hội hiện tại cho luật mà mình áp dụng.
Việc Indonesia cho phép thẩm phán áp dụng nhiều phương pháp giải thích pháp luật khác nhau dễ dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực hơn so với hệ thống thông luật (thường áp dụng phương pháp giải thích luật theo nghĩa đen), có thể làm cho các quy định của pháp luật thực định bị thay đổi theo các hướng khác nhau tùy thuộc vào phương pháp giải thích luật mà thẩm phán áp dụng .Điều này dẫn đến sự không thống nhất trong các bản án của các tòa án và như vậy, sẽ khó hình thành được nền tảng của tiền lệ pháp (án lệ).
Vai trò của án lệ
Indonesia không có một quy định nào của pháp luật xác nhận về sự điều chỉnh của án lệ áp dụng cho các phán quyết của tòa án. Do đó, phán quyết của tòa án thẩm quyền chung không được xem là nguồn luật chính thức, nghĩa là thẩm phán không buộc phải tuân theo các phán quyết trước đó của tòa án cấp cao hơn hoặc cấp tương đương. Tuy nhiên, tại Indonesia, việc tuân theo phán quyết trước đó của tòa án cấp cao hơn được cho là phù hợp. Các tòa án sơ thẩm và phúc thẩm nói chung thường coi phán quyết trước đó của Tòa án tối cao có tính thuyết phục cao và thường tuân theo các phán quyết này. Thẩm phán của tòa án cấp thấp thậm chí còn theo sát từng chữ trong các bản án của Tòa án tối cao về giải thích một điểm cụ thể trong luật.
Mặc dù vậy, thẩm phán Indonesia cũng gặp khó khăn khi áp dụng các bản án trước đó của Tòa án tối cao:
Thứ nhất là do bản án của Tòa án tối cao thường giải thích luật rất ngắn ,lập luận pháp lý không chặt chẽ ,thường không nêu ra các căn cứ pháp lý để đưa ra kết luận về sự việc của vụ án. Các bản án chủ yếu là mang tính “sự vụ” nên không thể áp dụng được như một án lệ.
Thứ hai là các bản án của Tòa án tối cao thường chậm được công bố, làm cho thẩm phán khó có được bản án đó. Kết quả là các thẩm phán Indonesia thường không có nhiều hướng dẫn về cách áp dụng các nguyên tắc pháp luật từ những vụ án mà Tòa án tối cao xét xử cho các vụ án sau này.
Bên cạnh đó Tòa án tối cao thường ban hành các Thông tư hướng dẫn việc áp dụng pháp luật. Các Thông tư này có ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với các bản án của Tòa án tối cao.
Tất cả những điều đó đã làm mờ nhạt vai trò của án lệ ở Indonesia.
Đề xuất nhằm phát huy vai trò của án lệ ở Indonesia và tham khảo ở Việt Nam
Từ thực tế nêu trên, có những đề xuất nhằm phát huy vai trò của án lệ ở Indonesia và tham khảo ở Việt Nam như sau:
- Cần thống nhất phương pháp giải thích luật khi xét xử. Tốt nhất là chỉ áp dụng phương pháp giải thích theo ngữ nghĩa của điều luật.
- Các bản án của Tòa án tối cao phải chỉ rõ những tình tiết liên quan ,lập luận nêu rõ các căn cứ pháp lý dẫn đến kết luận về vụ án.
- Các bản án có giá trị án lệ cần phải được công bố kịp thời ngay sau khi ban hành để các thẩm phán cấp dưới tiếp cận được ngay bản án đó.
- Các thẩm phán, luật sư và các học giả cần trao đổi việc phân tích, nghiên cứu các bản án của tòa án.
- Các trường luật cần đào tạo cho các sinh viên kỹ năng trong việc phân tích bản án của tòa án./.
(Tổng hợp từ : 1.Báo cáo về Tiền lệ và án lệ tại Indonesia ,tháng 11-2011 được thực hiện cho Dự án JPP; 2. Báo cáo về Indonesia (Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp ở năm nước chọn lọc (Trung Quốc,Indonesia,Nhật Bản,Cộng hòa Hàn Quốc và Liên bang Nga) do Đại học Sydney thực hiện cho Chương trình Phát triển liên hợp quốc tại Việt Nam,tháng 6-2010).
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Việt Nam: Giới thiệu Phó giám đốc Học viện Ngoại giao ứng cử vào vị trí thẩm phán Tòa án Luật biển quốc tế
-
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm về “Thực hành tiết kiệm”
-
Chi bộ Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học tổ chức thành công Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025 - 2027
-
Đại hội Chi bộ các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc Đảng ủy Tòa án nhân dân tối cao lần thứ Nhất, nhiệm kỳ 2025–2027
-
Nguyên nhân, điều kiện phạm tội của người chưa thành niên và giải pháp phòng ngừa
Bình luận