.jpg)
Trao đổi về “tội gây rối trật tự công cộng” theo Điều 318 Bộ luật Hình sự
Sau khi nghiên cứu bài viết “Cấn Thành Đ, Nguyễn Đức V, Nguyễn Đức A và Nguyễn Gia B có phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 không?” của tác giả Đỗ Thanh Xuân đăng ngày 04/9/2025, chúng tôi xin đưa ra một số ý kiến trao đổi.
1. Quan điểm chung về hành vi gây rối trật tự công cộng
Hành vi gây rối trật tự công cộng được xem là hành vi vi phạm quy tắc xử sự được đặt ra cho mỗi công dân ở nơi công cộng, xâm phạm tình trạng ổn định của sinh hoạt chung trong xã hội.
Theo từ điển Luật học “Hành vi gây rối công cộng là các hành vi xâm phạm đến con người, đến quyền hoặc lợi ích hợp pháp của họ hoặc xâm phạm đến sở hữu và diễn ra tại công cộng. Trong đó, nơi công cộng được hiểu là những địa điểm “kín” (rạp hát, rạp chiếu bóng,…) hoặc “mở” (sân vận động, công viên, đường phố,…) mà ở đó các hoạt động chung của xã hội được diễn ra thường xuyên hoặc không thường xuyên”1.
Có quan điểm cho rằng “Gây rối trật tự công cộng được hiểu là hành vi làm rối loạn trật tự ở những nơi công cộng (như quảng trường, công viên, rạp hát) hoặc nơi đông người dưới bất kỳ hình thức nào (như tụ tập đánh nhau, phá phách tài sản,…), gây xáo trộn nghiêm trọng sinh hoạt của nhiều người, tấn công những người có trách nhiệm bảo vệ trật tự công cộng”2.
Một trong những dấu hiệu chính cấu thành tội phạm là hành vi đó “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.
Có quan điểm cho rằng, tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” được hiểu là hành vi phạm tội không chỉ gây tổn hại đến sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã hội, sự độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, mà còn làm xáo trộn sự bình yên của xã hội, nơi mà người dân sống trong hòa bình và tuân thủ pháp luật cùng các chuẩn mực đạo đức. Việc quy định tình tiết này nhằm mục đích phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh chống tội phạm, cũng như các hành vi vi phạm pháp luật ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội”3.
Theo tác giả, tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” được hiểu là hành vi phạm tội để lại những hệ quả tiêu cực, làm suy giảm sự ổn định xã hội. Cụ thể như gây tâm lý bất an, lo sợ trong cộng đồng, ảnh hưởng đến đời sống thường nhật của người dân, đồng thời, tạo tiền lệ xấu, kích thích hoặc lôi kéo các hành vi vi phạm pháp luật khác, gây rối loạn trật tự công cộng, làm mất ổn định tình hình an ninh và an toàn xã hội tại địa phương.
Thực tiễn xét xử cho thấy, việc áp dụng tình tiết này đôi khi mang tính chủ quan, mang tính chất phi vật chật và có phần định tính, dẫn đến sự chủ quan và thiếu nhất quán trong các bản án. Theo tác giả, khi áp dụng tình tiết này cần chú ý đến nhiều yếu tố: phải đánh giá tính chất hành vi dựa trên hoàn cảnh, địa điểm, đối tượng bị tác động và mức độ lan tỏa trong cộng đồng; đồng thời xác định rõ hậu quả xã hội, không chỉ ở thiệt hại vật chất mà còn ở những tác động tiêu cực khác đối với cộng đồng; và đặc biệt phải bảo đảm tính khách quan, thận trọng, dựa trên chứng cứ cụ thể.
2. Quan điểm về hành vi của Cấn Thành Đ, Nguyễn Đức V, Nguyễn Đức A và Nguyễn Gia B
Tội gây rối trật tự công cộng quy định tại Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (viết là BLHS) là một trong những tội phạm xâm phạm đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định của sinh hoạt cộng đồng. Việc xác định hành vi cụ thể có cấu thành tội phạm này hay không luôn là vấn đề phức tạp, bởi lẽ như đã phân tích tiêu chí đánh giá “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” thường mang tính định tính, đòi hỏi sự khách quan và thận trọng. Trên cơ sở phân tích vụ án liên quan đến Nguyễn Đức A, Cấn Thành Đ, Nguyễn Đức V và Nguyễn Gia B, chúng tôi có ý kiến như sau:
(1) Đối với hành vi của Nguyễn Đức A, Cấn Thành Đ, Nguyễn Đức V chúng tôi thống nhất với quan điểm thứ hai bởi những lý do sau đây:
Đối với Nguyễn Đức A: A bỏ chạy cùng nhóm, nhưng chứng kiến Kh, D, V nhặt bê tông để đánh nhau. A biết rõ việc sử dụng bê tông là nhằm gây rối nơi công cộng. Mặc dù A không trực tiếp nhặt hoặc ném bê tông, nhưng việc không can ngăn, tiếp tục đi cùng nhóm cho thấy sự đồng thuận và chấp nhận hành vi phạm tội. Chỉ đến khi bị nhóm T đuổi lần thứ ba, A mới được Trung K chở về. Điều đó chứng tỏ A không chủ động từ bỏ mà chỉ rời đi khi bị động, do tình thế buộc phải bỏ chạy. Vai trò của A đồng phạm với tính chất người giúp sức về tinh thần, khi hiện diện và cùng tham gia, tạo sự hỗ trợ về mặt tâm lý, củng cố quyết tâm cho các đối tượng trực tiếp thực hành.
Đối với Cấn Thành Đ và Nguyễn Đức V: Sau khi bỏ chạy lần đầu, Đ và V không rời nhóm mà tiếp tục quay lại, đi cùng Kh, D, A và những người khác lên đập QT. Khi bị nhóm T đuổi, họ quay xe bỏ chạy, nhưng sau đó Đ lại chủ động liên lạc với D, rồi chở V đến tòa nhà Viettel gặp nhóm Kh, V, D và Kiều V, sau đó tiếp tục nhập nhóm, đi cùng nhau. Đ và V chứng kiến trực tiếp việc D chở Kiều V ném bê tông vào nhóm của T, nhưng không phản đối, không rời nhóm mà vẫn đồng hành. Vai trò của Thành Đ và Đức V, hành vi quay lại, nhập nhóm, duy trì sự có mặt trong toàn bộ quá trình, cùng chứng kiến hành vi ném bê tông đã thể hiện sự đồng thuận ý chí và tham gia với tư cách đồng phạm. Đặc biệt, việc Đ gọi điện, hẹn gặp để tập hợp nhóm thể hiện yếu tố giúp sức tích cực.
Như vậy, hành vi của Nguyễn Đức A, Cấn Thành Đ và Nguyễn Đức V cho thấy sự thống nhất ý chí với Nguyễn Văn Kh và Nguyễn Hoàng D, thể hiện qua việc đồng hành cùng nhóm, chứng kiến hành vi phạm tội mà không từ bỏ, thậm chí còn hỗ trợ về phương tiện, liên lạc và tinh thần. Do đó, có đủ căn cứ pháp lý để xác định họ là đồng phạm trong “Tội gây rối trật tự công cộng” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 BLHS.
(2) Đối với hành vi của Nguyễn Gia B, chúng tôi thống nhất với quan điểm thứ nhất bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, xét về mặt khách quan của hành vi. Nguyễn Gia B đã đồng ý khi được T rủ đi lấy vỏ chai thủy tinh - tức là có sự nhận thức về mục đích sử dụng vỏ chai làm công cụ tấn công nhóm của Nguyễn Văn Kh. Hành vi này thể hiện sự chấp nhận tham gia vào một chuỗi hoạt động có tính chất gây rối. Sau đó, B điều khiển xe mô tô với tốc độ cao để cùng nhóm của T đuổi theo nhóm của Kh từ đầu đến cuối sự việc. Dù B không trực tiếp ném vỏ chai hay bê tông, nhưng việc chở, điều khiển xe tốc độ cao đã góp phần hỗ trợ các đối tượng khác thực hiện hành vi gây rối tại nơi công cộng.
Thứ hai, về mặt chủ quan của hành vi. B biết rõ mục đích của nhóm là tìm đánh nhau, gây rối nơi công cộng. Khi đồng ý tham gia và thực hiện hành vi điều khiển xe mô tô để hỗ trợ việc truy đuổi, B đã thể hiện ý chí đồng thuận với hành vi phạm tội chung. Do vậy, B có lỗi cố ý gián tiếp, nhận thức được khả năng hành vi của mình góp phần vào việc gây rối nhưng vẫn thực hiện.
Thứ ba, vị trí pháp lý của Nguyễn Gia B. Theo quy định tại Điều 17 BLHS, đồng phạm gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục và người giúp sức. Trong vụ việc này, B không giữ vai trò chính trong việc thực hiện hành vi gây rối (không trực tiếp ném chai lọ, không chủ động khởi xướng hành vi), mà chỉ tham gia giúp sức bằng việc đồng ý đi cùng, chở đồng bọn, hỗ trợ di chuyển và truy đuổi đối phương. Đây là hành vi giúp sức về mặt tinh thần và phương tiện, góp phần tạo điều kiện cho hành vi phạm tội diễn ra thuận lợi hơn. Tuy nhiên, sự giúp sức này mang tính không đáng kể, bởi B không trực tiếp tác động mạnh mẽ đến hậu quả gây rối như những người trực tiếp ném vỏ chai, bê tông.
Thứ tư, đánh giá mức độ nguy hiểm và trách nhiệm hình sự. Hành vi của B vẫn được coi là tham gia vào chuỗi hành vi gây rối, xâm phạm đến trật tự công cộng và gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Tuy nhiên, xét về mức độ đóng góp, B chỉ ở vai trò thứ yếu, mang tính hỗ trợ. Do đó, khi xem xét trách nhiệm hình sự, Tòa án có thể áp dụng nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, cân nhắc mức án nhẹ hơn so với các bị can có vai trò chủ mưu hoặc thực hành chính.
Như vậy, Nguyễn Gia B đã thực hiện hành vi “gây rối trật tự công cộng” với vai trò người giúp sức nhưng không đáng kể. Sự tham gia của B thể hiện ý chí đồng thuận và hỗ trợ, song không quyết định trực tiếp đến mức độ nghiêm trọng của vụ việc.
Trên đây là quan điểm cá nhân của chúng tôi, rất mong nhận được nhiều ý kiến của các đồng nghiệp để việc áp dụng pháp luật được thống nhất.
1 Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Nxb. Tư pháp, 2006, tr.182.
2 Đoàn Tuấn Minh, Nguyễn Ngọc Điệp, Phương pháp định tội với 538 tội phạm quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb. Lao động, 2019, tr.464.
3 Phạm Minh Tuyên, Một số vấn đề vướng mắc trong việc định tội và định khung hình phạt đối với một số tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21/2018, tr.27-31.
Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xét xử phúc thẩm vụ án về tội gây rối trật tự công cộng - Ảnh: N.B
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Cấn Thành Đ, Nguyễn Đức V, Nguyễn Đức A và Nguyễn Gia B có phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 không?
-
Bắt khẩn cấp “ông bầu” Cao Tiến Đoan
-
TAND Khu vực 5 - TP Đà Nẵng: Khẳng định bản lĩnh, vững bước cùng truyền thống 80 năm TAND
-
Lời cảm ơn của Ban Tổ chức concert “Việt Nam trong tôi”
-
Trao đổi bài viết “Chiếc ghe máy đánh bắt cá có được xác định là tài sản mà Phạm Hữu V đã trộm cắp của ông Nguyễn Văn C không?”
Bình luận