Trao đổi về bài viết: “Đã rút đơn yêu cầu thi hành về giao con, làm sao để thi hành bản án buộc cha giao trả con chung?”

Sau khi nghiên cứu bài viết “Đã rút đơn yêu cầu thi hành về giao con, làm sao để thi hành bản án buộc cha giao trả con chung?” của các tác giả Trần Tú Anh - Huỳnh Minh Khánh đăng trên Tạp chí Tòa án điện tử ngày 06/8/2025, tôi đồng thuận với quan điểm thứ hai, đồng thời có một số ý kiến nhằm làm rõ, bổ sung cho quan điểm Tòa án có thẩm quyền phải thụ lý, giải quyết đơn khởi kiện của chị N theo đúng trình tự, thủ tục luật định

Thứ nhất, căn cứ khoản 1 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Bản án sơ thẩm số 08/2023/HNGĐ-ST ngày 10/01/2023 của TAND huyện C đã tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N, cho chị N ly hôn với anh H, giao hai con chung cho chị N nuôi dưỡng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Bản án phúc thẩm số 29/2023/HNGĐ-PT ngày 18/4/2023 của TAND tỉnh T đã tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm, nếu anh H lạm dụng việc thăm con chung để gây cản trở hay ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì chị N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con chung đối với anh H.

Đồng thời, Điều 8 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 quy định căn cứ xác lập quyền dân sự thì quyền dân sự được xác lập căn cứ trên Quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định của luật.

Như vậy, quyền được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu K1 của chị N được xác lập căn cứ trên Bản án sơ thẩm số 08/2023/HNGĐ-ST và Bản án phúc thẩm số 29/2023/HNGĐ-PT. Cũng như quyền được sống chung với người trực tiếp nuôi dưỡng là chị N của cháu K1 cũng căn cứ trên hai Bản án này và anh H có nghĩa vụ tôn trọng, không được thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền dân sự này của chị N, cháu K1.

Tuy nhiên, ngày 06/02/2024 cháu K1 (con gái lớn) bị bệnh nên nhập viện điều trị tại Bệnh viện N, thành phố H, chị N có thông báo cho anh H biết để đến thăm con. Trong thời gian ở bệnh viện thăm con thì anh H đã lén lút đưa cháu K1 về nhà anh H (tại xã T, huyện C, tỉnh T) trong lúc cháu đang điều bệnh viêm phổi nặng, chưa có chỉ định xuất viện của bác sỹ và bệnh viện điều trị.

Hành vi này của anh H đang xâm phạm đến quyền được trực tiếp nuôi con chung của chị N, cũng như xâm phạm đến quyền được sống chung với người trực tiếp nuôi dưỡng là chị N theo phán quyết của Tòa án của cháu K1.

Căn cứ khoản 2 Điều 11, Điều 14 BLDS 2015, chị N có quyền khởi kiện anh H đến Tòa án có thẩm quyền yêu cầu anh H chấm dứt hành vi xâm phạm đến quyền được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, cũng như quyền được sống chung cùng người trực tiếp nuôi dưỡng của chị N và cháu K1 căn cứ vào quyết định của Bản án sơ thẩm số 08/2023/HNGĐ-ST ngày 10/01/2023 của TAND huyện C và Bản án phúc thẩm số 29/2023/HNGĐ-PT ngày 18/4/2023 của TAND tỉnh T.

Thứ hai, căn cứ khoản 8 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 quy định những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

Chị N chị đã nộp đơn khởi kiện anh H tại TAND huyện C yêu cầu Tòa án xử buộc anh H chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền nuôi con chung của chị theo Bản án phúc thẩm số 29/2023/HNGĐ-PT. Anh H phải giao trả cháu K1 cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng theo đúng Bản án phúc thẩm số 29/2023/HNGĐ-PT ngày 18/4/2023.

Người viết cho rằng, tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm đến quyền được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, cũng như quyền của con chung được sống cùng người trực tiếp nuôi dưỡng thuộc phạm vi các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình theo khoản 8 Điều 28 BLTTDS 2015.

Thứ ba, điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 quy định Thẩm phán trả lại Đơn khởi kiện khi sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại.

Tuy nhiên, thực tế Bản án sơ thẩm số 08/2023/HNGĐ-ST ngày 10/01/2023 của TAND huyện C và Bản án phúc thẩm số 29/2023/HNGĐ-PT ngày 18/4/2023 của TAND tỉnh T chỉ giải quyết tranh chấp về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn. Còn hiện tại, Chị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh H chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền nuôi con chung của chị theo Bản án phúc thẩm số 29/2023/HNGĐ-PT. Anh H phải giao trả cháu K1 cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng theo đúng Bản án phúc thẩm số 29/2023/HNGĐ-PT ngày 18/4/2023. Đây là hai quan hệ pháp luật, hai tranh chấp khác nhau (tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm đến quyền được trực tiếp nuôi con chung căn cứ theo phán quyết của Tòa án khác với tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn).

Vì vậy, Thẩm phán không có căn cứ để trả lại đơn khởi kiện theo điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015.

ThS. DƯƠNG THỊ CHIẾN (Công ty Luật TNHH Pros Legal, TP. HCM)

TAND TP. Cần Thơ xét xử phúc thẩm vụ án tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn - Ảnh: Như Anh.