Vấn đề hủy Quyết định hoãn chấp hành án phạt tù bất cập và kiến nghị

Trong thời gian được hoãn chấp hành án phạt tù, thì người bị kết án bị khởi tố về hành vi phạm tội trước hành vi đã được xét xử và kết án, trong trường hợp này có hủy quyết định hoãn chấp hành án phạt tù đối với người bị kết án hay không?

Quy định của pháp luật

Theo quy định tại khoản 1 Điều 67 BLHS thì người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành án hình phạt tù trong các trường hợp sau: “a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục; b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi; c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.”.

Theo quy định tại ý 1 khoản 4 Điều 25 Luật Thi hành án hình sự thì: “ Trong thời gian được hoãn chấp hành án mà người được hoãn chấp hành án phạt tù lại thực hiện hành vi phạm tội mới, bỏ trốn hoặc vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao quản lý người được hoãn chấp hành án báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để đề nghị Chánh án Tòa án có thẩm quyền xem xét ra quyết định hủy quyết định hoãn chấp hành án phạt tù.”

Theo quy định thì người bị xử phạt tù được hoãn chấp hành án phạt tù sẽ bị hủy Quyết định hoãn chấp hành án nếu thuộc một trong các trường hợp sau: (1) trong thời gian được hoãn chấp hành án mà người được hoãn chấp hành án phạt tù lại thực hiện hành vi phạm tội mới; (2) bỏ trốn và (3) vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Ngoài ra khoản 1 Điều 8 Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 12/8/2021 quy định quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự, thủ tục hoãn,miễn chấp hành án phạt tù (viết tắt TTLT số 01), có hướng dẫn, cụ thể: “Tòa án xem xét hủy quyết định hoãn chấp hành án phạt tù trong các trường hợp sau: a) Người được hoãn chấp hành án phạt tù không cam kết chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật hoặc thực hiện hành vi phạm tội mới, bỏ trốn hoặc vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; b) Người được hoãn chấp hành án phạt tù có kết quả giám định xác định họ mắc bệnh tâm thần, bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi; c) Người được hoãn chấp hành án phạt tù có kết quả giám định xác định họ đã hồi phục sức khỏe và đã bị đưa đến nơi chấp hành án phạt tù; d) Người được hoãn chấp hành án phạt tù có đơn tự nguyện xin chấp hành án phạt tù.”.

Qua hướng dẫn của TTLT số 01 cho thấy có 4 trường hợp Tòa án đã ra Quyết định hoãn chấp hành án phạt tù phải ra Quyết định hủy quyết định hoãn chấp hành án phạt tù. Trong đó có 01 trường hợp (nếu thuộc 1 trong các trường hợp) được quy định tại ý 1 khoản 4 Điều 25 Luật Thi hành án hình sự và được hướng dẫn bổ sung tại TTLT số 01 là 03 trường hợp còn lại như trên đã phân tích.

Vướng mắc trong thực tiễn

Người bị xử phạt tù:  Nguyễn Thị H, sinh năm 1989.

Nơi cư trú: số 9, ngõ 2 thôn T, xã C, huyện Th, Thành phố H

Bị kết án 36 tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo Bản án hình sự phúc thẩm số 150/2022/HSPT ngày 28/4/2022 của TAND TP H và Quyết định thi hành phạt tù số 355/2022/QĐ-CA ngày 12/5/2022 của Chánh án TAND quận X. (Hành vi làm giả tài liệu cơ quan, tổ chức xảy ra năm 2020).

Các lần hoãn chấp hành án phạt tù

Lần 1: Ngày 12/5/2022 người bị kết án có đơn xin hoãn chấp hành án phạt tù với lý do là lao động duy nhất nếu phải chấp hành án gia đình lâm vào hoàn cảnh khó khăn đặc biệt (có chồng nhưng đã ly hôn), hiện 2 con nhỏ không ai chăm sóc (kèm theo hồ sơ theo quy định). Ngày 17/5/2022 Chánh án Tòa án TAND quận X ra Quyết định hoãn chấp hành án phạt tù 01 năm kể từ ngày 17/5/2022 và giao cho UBND xã C huyện Th, TP H quản lý.

Lần 2: Trong thời gian hoãn chấp hành án 01 năm vì là lao động duy nhất trong gia đình thì người bị kết án có thai và sinh con (con Nguyễn Nhật M sinh 18/4/2023); ngày 18/5/2023 người bị kết án có đơn xin hoãn chấp hành án phạt tù với lý do đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi (kèm hồ sơ theo quy định). Ngày 21/5/2023 Chánh án Tòa án TAND quận X ra Quyết định hoãn chấp hành án phạt tù số 05/2023/THAHS-QĐ  hoãn chấp hành án phạt tù kể từ ngày 18/4/2023 cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi và giao giao cho UBND xã C huyện Th, TP H quản lý.

Tuy nhiên, ngày 17/10/2023 Cơ quan Thi hành án hình sự Công an huyện Th có Công văn số 156/TB-CQTHAHS về việc đề nghị hủy quyết định hoãn chấp hành án phạt tù số 05/2023/THAHS-QĐ  ngày 21/5/2023 của Chánh án TAND quận X với lý do: Trong thời gian hoãn chấp hành án người bị kết án đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Đ khởi tố bị can số 672/QĐ-CQĐT-CSKT ngày 07/10/2023 do trong khoảng thời gian từ năm 2018 đến 2019 đã có hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 174 BLHS và Ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án Nguyễn Thị H.

Có hai quan điểm xử lý đối với tình huống này

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Chánh án TAND quận X phải ra Quyết hủy Quyết định hoãn chấp hành án phạt tù số 05/2023/THAHS-QĐ Ngày 21/5/2023 để buộc người bị kết án phải chấp hành án phạt tù. Với lý do, trên cơ sở văn bản đề nghị tại Công văn số 156/TB-CQTHAHS ngày 17/10/2023 Cơ quan Thi hành án hình sự Công an huyện Th, theo quy định tại khoản 2 Điều 67 BLHS; khoản 4 Điều 25 Luật Thi hành án hình sự và hướng dẫn tại ý 2 điểm a khoản 1 Điều 8 TTLT số 01 là đúng pháp luật.

Quan điểm thứ hai cho rằng (đây cũng là quan điểm của tác giả bài viết): Chánh án TAND quận X không ra Quyết định hủy quyết định hoãn chấp hành án phạt tù số 05/2023/THAHS-QĐ ngày 21/5/2023 để buộc người bị xử phạt tù Nguyễn Thị H phải chấp hành hình phạt tù do người bị kết án chưa hết thời hạn hoãn chấp hành án do đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Người bị kết án Nguyễn Thị H không thuộc trường hợp theo quy định tại ý 1 khoản 4 Điều 25 Luật Thi hành án hình sự và điểm a khoản 1 Điều 8 TTLT số 01.

Bởi theo quy định tại ý 1 khoản 4 Điều 25 Luật Thi hành án hình sự thì: “Trong thời gian được hoãn chấp hành án mà người được hoãn chấp hành án phạt tù lại thực hiện hành vi phạm tội mới, bỏ trốn hoặc vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì… Chánh án Tòa án có thẩm quyền xem xét ra quyết định hủy quyết định hoãn chấp hành án phạt tù”. Tức là trong thời gian hoãn chấp hành án phải thỏa mãn một trong các điều kiện sau: Một là, thực hiện hành vi phạm tội mới; hai là, bỏ trốn và ba là, vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Trong trường hợp này, người được hoãn chấp hành án phạt tù Nguyễn Thị H không phải là phạm tội mới do thời điểm thực hiện hành vi làm giả tài liệu cơ quan tổ chức diễn ra trong năm 2020 và bị kết án theo bản án hình sự  phúc thẩm số 150/2022/HSPT ngày  28/4/2022 và Quyết định thi hành phạt tù số 355/2022/QĐ-CA ngày 12/5/2022.

Hành vi lừa đảo diễn ra trước hành làm giả tài liệu cơ quan tổ chức; hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản  diễn ra vào năm 2018-2019 nhưng do bị phát hiện và xử lý sau khi có bản án xử về tội làm giả tài liệu cơ quan, tổ chức và quyết định hoãn chấp án phạt tù đang có hiệu lực pháp luật nên không được coi là phạm tội mới trong thời gian hoãn chấp hành án phạt tù. Hơn nữa theo quy định tại khoản 2 Điều 67 BLHS thì: “Trong thời gian được tạm hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này”.

Quy định này được hiểu là việc tổng hợp bản án đối với người được hoãn chấp hành án phạm tội mới về mặt thời gian sau khi đã chấp hành quyết định hoãn chấp hành án nhưng lại phạm tội mới. Pháp luật hiện chưa có quy định dự liệu trường hợp trong thời gian hoãn chấp hành án phạt tù lại phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm diễn ra trước khi có bản án tuyên phạt và có quyết định hoãn chấp hành án phạt tù. Do, khoản 2 Điều 67 BLHS chưa quy định nhưng ở trường sau khi hoặc trong thời gian được hoãn chấp hành án phát tù thì phát hiện hiện hành vi thỏa mãn dấu hiệu tội phạm xảy ra trước khi có bản án, quyết định hoãn thì theo quy tại Điều 56 BLHS vẫn phải tổng hợp bản án nhưng không xác định tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. Do vậy, không có cơ sở và căn cứ pháp lý để Chánh án TAND quận X ra Quyết định hủy quyết định hoãn chấp hành án phạt tù số 05/2023/THAHS-QĐ ngày 21/5/2023 để buộc người bị xử phạt tù Nguyễn Thị H phải chấp hành hình phạt tù.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Mặc dù, về lý luận và thực tiễn tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, tuy nhiên qua thực tiễn giải quyết trường hợp hủy hay không hủy quyết định hoãn chấp hành án phạt tù đối với người bị kết án Nguyễn Thị H tôi thấy rằng quy định tại ý 1 khoản 4 Điều 25 Luật Thi hành án hình sự và tại khoản 2 Điều 67 BLHS cũng như hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều 8 TTLT số 01 cần có sự bổ sung đối với trường hợp “trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại bị phát hiện đã thực hiện hành vi phạm tội trước khi được hoãn” thì cũng thuộc trường hợp Chánh án có thẩm quyền ra đã Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù phải ra Quyết định hủy quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù và buộc người được hoãn phải chấp hành án.

Vì qua trường hợp trên cho chúng ta thấy người bị kết án Nguyễn Thị H đã được hoãn vì lý do là lao động duy nhất thời hạn hoãn 01 năm trong thời gian được hoãn lại mang thai và đẻ. Mặc dù, việc mang thai và quyền sinh con là quyền nhân thân được pháp luật bảo vệ nhưng đây có phải  là kẻ hở không? Đây có phải là sự vi phạm cam kết không? Cố tình trốn tránh không? Dù pháp luật không cấm nhưng là sự đánh giá nhân thân cố tình trốn tránh việc chấp hành án; trong thời gian hoãn chấp hành án vì đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi lại bi khởi tố điều tra bởi một hành vi phạm tội khác mặc dù, hành vi này xảy ra trước khi có bản án kết tội và hoãn chấp hành án.

Do vậy, theo tôi đây là một bất cập cần có sự nghiên cứu, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, tôi kiến nghị bổ sung trường hợp: “Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại bị phát hiện đã thực hiện hành vi phạm tội trước khi được hoãn” thì cũng là một trong những căn cứ để Chánh án Tòa án đã ra Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù phải ra Quyết định hủy quyết định hoãn chấp hành án phạt tù, buộc người được hoãn phải chấp hành án hình phạt tù theo quy định của pháp luật vào các quy định tại 1 khoản 4 Điều 25 Luật Thi hành án hình sự và tại khoản 2 Điều 67 BLHS cũng như hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều 8 TTLT số 01. Có như vậy, mới bảo đảm tính thống nhất nghiêm minh của pháp luật trong hoãn chấp hành án phạt tù hiện nay.

 

TAND quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng xét xử vụ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản - Ảnh: TT

Th.S ĐỖ NGỌC BÌNH (Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội)