.jpg)
Về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khi bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm do lỗi của doanh nghiệp bảo hiểm
Việc xác định hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khi bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm do lỗi của doanh nghiệp bảo hiểm là vấn đề khá khó khăn và phức tạp, bởi căn cứ pháp lý quy định cụ thể về vấn đề này chưa thực sự rõ ràng. Án lệ số 23/2018/AL ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và bảo đảm thống nhất việc xét xử các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực này. Bài viết này tập trung phân tích, luận bàn và đưa ra một số nhận xét cũng như khuyến nghị về nội dung của Án lệ này.
1. Nội dung Án lệ số 23/2018/AL
Án lệ số 23/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06/11/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Bản án dân sự phúc thẩm số 538/2009/DS-PT ngày 31/3/2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị T với bị đơn là Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ P; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Vũ Thị Minh N.
Vị trí nội dung của án lệ:
Đoạn 4, 7, 8 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái quát nội dung án lệ:
- Tình huống án lệ:
Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ thể hiện người mua bảo hiểm lựa chọn hình thức thu phí bảo hiểm là tại địa chỉ nhà của bên mua bảo hiểm. Đến thời hạn đóng phí bảo hiểm và trong thời gian gia hạn đóng phí, nhân viên doanh nghiệp bảo hiểm không đến thu phí của người mua bảo hiểm.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, phải xác định người mua bảo hiểm không có lỗi trong việc chưa đóng phí. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không bị mất hiệu lực vì lý do bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm trong thời hạn theo thỏa thuận.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điều 23 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 được sửa đổi, bổ sung năm 2010.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn bà Phạm Thị T trình bày: Chồng của bà là Trần Hữu L có đăng ký mua bảo hiểm của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P. Chồng của bà bị tai nạn chết. Theo hợp đồng bà là người thụ hưởng. Nay bà yêu cầu bị đơn trả số tiền bảo hiểm là 300 triệu đồng và tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản tính từ tháng 8/2005 đến nay là 126 triệu đồng, tổng cộng là 426 triệu đồng.
Bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P có đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Quốc T trình bày: Ông L phải nộp phí bảo hiểm lần II vào ngày 24/6/2005, sau đó được gia hạn thêm hai tháng nhưng vẫn không nộp tiền. Ông L chết ngày 27/8/2005 là thời điểm hợp đồng bảo hiểm đã mất hiệu lực 03 ngày. Vì thế bị đơn không chấp nhận trả tiền theo yêu cầu của nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Vũ Thị Minh N trình bày: Bà là đại lý của bị đơn, đã bán bảo hiểm cho ông L. Bà thỏa thuận với ông L là đến kỳ thu phí bảo hiểm, bà sẽ trực tiếp thu phí tại nhà ông L. Nhưng đến kỳ hạn cuối thu tiền bà phải đi học chính trị ở tỉnh nên không thu phí được. Việc không nộp tiền được là do khách quan, nên bà yêu cầu bị đơn phải trả tiền bảo hiểm cho nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2008/DS-ST ngày 21/8/2008 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị T đòi Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P trả tiền bảo hiểm và tiền lãi do chậm thanh toán là 426.000.000 đồng.
2. Về án phí: Bà Phạm Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 7.890.000 đồng, nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 6.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số 2185 ngày 09/6/2006 của Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T còn phải nộp 1.890.000 đồng.
Án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 01/9/2008 bà Phạm Thị T kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết việc kiện.
Bà T trình bày yêu cầu kháng cáo là đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P trả tiền bảo hiểm và tiền lãi do chậm thanh toán là 426.000.000 đồng. Với lý do vì người của công ty không đến thu tiền bảo hiểm chứ không phải bà không đóng. Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà T đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của bà T.
Ông Nguyễn Quốc T đại diện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cùng luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp đề nghị Hội đồng xét xử y án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bà Phạm Thị T làm trong hạn luật định, hợp lệ.
[3] Về nội dung:
[4] Căn cứ hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ (bút lục 15-17) thể hiện địa chỉ để Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P thu phí là tại nhà số 231 ấp 3, xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre là nhà của ông L. Điều này cũng phù hợp với lời khai của bà N là đại lý bán bảo hiểm và thu phí của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.
[5] Xét yêu cầu kháng cáo của bà T cho rằng, việc ông L không đóng phí bảo hiểm đúng hạn là do phía công ty không cử người đến thu là có cơ sở như chứng cứ nêu trên.
[6] Căn cứ giấy xác nhận của Công an xã B cho thấy ông L chết vào ngày 27/8/2005 là do bất cẩn té đập đầu chấn thương sọ não gây tử vong.
[7] Xét ông L đã ký hợp đồng bảo hiểm thông qua hình thức hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ với mức bảo hiểm là 300.000.000 đồng, việc ông L chưa đóng phí đợt 02 như đã phân tích ở trên là không phải lỗi của ông L, do đó yêu cầu kháng cáo của bà T buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải chi trả tiền bảo hiểm khi ông L tử vong do tai nạn là có cơ sở để chấp nhận.
[8] Xét yêu cầu của đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cho rằng, ông L không đóng phí bảo hiểm đợt 02 hạn chót là ngày 24/8/2005 và ông L đã chết ngày 27/8/2005, như vậy hợp đồng bảo hiểm của ông L đã hết hiệu lực là không có cơ sở. Bởi lẽ, như đã phân tích ở trên, lý do ông L không đóng phí bảo hiểm là do nhân viên công ty không đến thu phí. Điều này cũng thể hiện rõ tại trang 05 quyển những thông tin khách hàng cần biết nêu rõ việc thu phí tại nhà gồm có thu phí hàng quý, 06 tháng, hàng năm, hoặc cùng một địa chỉ có từ 02 hợp đồng trở lên, phù hợp với trường hợp của ông L đã mua 03 hợp đồng của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P là của ông L, bà T, bà H. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P, cũng như lời đề nghị của luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.
[9] Xét yêu cầu của bà T buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải trả tiền lãi chậm trả từ 27/8/2005 đến ngày Tòa án xét xử là không có cơ sở. Vì tại giấy chứng nhận bảo hiểm do Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cấp cho ông L không thể hiện điều khoản về lãi suất, vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này của bà T.
[10] Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà T, sửa án sơ thẩm buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng tử vong do tai nạn của ông L là 300.000.000 đồng mà người thụ hưởng là bà T.
[11] Án phí dân sự sơ thẩm bà T và Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải chịu theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định 70/CP. Cụ thể, bà T phải chịu án phí trên số tiền lãi không được chấp nhận là 6.040.000 đồng. Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải chịu án phí trên số tiền phải chi trả cho bà T là 12.000.000 đồng.
[12] Do sửa án sơ thẩm nên bà T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 2 Điều 275 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị T.
- Sửa Bản án sơ thẩm số 38/2008/DS-ST ngày 21/8/2008 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Phạm Thị T.
* Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P trả tiền bảo hiểm là 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng) cho bà Phạm Thị T ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
* Kể từ ngày có đơn xin thi hành án của nguyên đơn, nếu phía bị đơn không thi hành các khoản nêu trên thì phải chịu lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị T phải chịu án phí là 6.040.000 đồng (Sáu triệu không trăm bốn mươi ngàn đồng), nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) theo Biên lai thu tiền số 002185 ngày 09/6/2006 của Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T còn phải nộp 40.000 đồng (Bốn mươi ngàn đồng).
Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải nộp án phí là 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng).
3. Án phí dân sự phúc thẩm bà T không phải nộp, hoàn lại cho bà T 50.000 đồng (Năm mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 004852 ngày 09/9/2008 của Thi hành án dân sự Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
NỘI DUNG ÁN LỆ:
“[4] Căn cứ hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ (bút lục 15-17) thể hiện địa chỉ để Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P thu phí là tại nhà số 231 ấp 3, xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre là nhà của ông L. Điều này cũng phù hợp với lời khai của bà N là đại lý bán bảo hiểm và thu phí của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.
[7] Xét ông L đã ký hợp đồng bảo hiểm thông qua hình thức hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ với mức bảo hiểm là 300.000.000 đồng, việc ông L chưa đóng phí đợt 2 như đã phân tích ở trên là không phải lỗi của ông L do đó yêu cầu kháng cáo của bà T buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải chi trả tiền bảo hiểm khi ông L tử vong do tai nạn là có cơ sở để chấp nhận.
[8] Xét yêu cầu của đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cho rằng ông L không đóng phí bảo hiểm đợt 2 hạn chót là ngày 24/8/2005 và ông L đã chết ngày 27/8/2005, như vậy hợp đồng bảo hiểm của ông L đã hết hiệu lực là không có cơ sở. Bởi lẽ như đã phân tích ở trên, lý do ông L không đóng phí bảo hiểm là do nhân viên công ty không đến thu phí. Điều này cũng thể hiện rõ tại trang 5 quyển những thông tin khách hàng cần biết nêu rõ việc thu phí tại nhà gồm có thu phí hàng quý, hàng 6 tháng, hàng năm, hoặc cùng một địa chỉ có từ 2 hợp đồng trở lên, phù hợp với trường hợp của ông L đã mua 03 hợp đồng của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P là của ông L, bà T, bà H. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P, cũng như lời đề nghị của luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.”
2. Bình luận
2.1. Sự cần thiết lựa chọn và công bố Án lệ số 23/2018/AL
Dù hai bên đã ký kết hợp đồng bảo hiểm, nhưng người tham gia bảo hiểm không đóng bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm cũng không có giá trị bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm khi xuất hiện sự kiện bảo hiểm. Trong trường hợp không có thỏa thuận khác thì dù trước đó người tham gia bảo hiểm đóng bảo hiểm đều đặn, nhưng sau đó không đóng bảo hiểm hoàn toàn do lỗi của bên tham gia bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời gian bên tham gia bảo hiểm không đóng bảo hiểm thì sẽ bị bên bảo hiểm từ chối bảo hiểm. Điều đó cho thấy, hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng thực tế, đòi hỏi người tham gia bảo hiểm phải thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm đủ, đúng hạn.
Trong vụ án được chọn làm án lệ, ông Trần Hữu L đã mua bảo hiểm của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P. Ông Trần Hữu L bị tai nạn chết đúng thời gian ông chưa đóng phí bảo hiểm, dẫn đến Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm nhân thọ P từ chối bảo hiểm. Bà Phạm Thị T là vợ ông Trần Hữu L không đồng ý và đã khởi kiện ra Tòa án yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm, vì việc chưa đóng bảo hiểm không phải lỗi của chồng bà.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2008/DS-ST ngày 21/8/2008, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị T.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 538/2009/DS-PT ngày 31/3/2009, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị T.
Thực tế đó cho thấy, còn có nhận thức khác nhau trong áp dụng quy định của pháp luật vào những vụ án cụ thể.
Do đó, việc Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chọn vụ án này là án lệ nhằm tạo ra nhận thức thống nhất trong áp dụng pháp luật về bảo hiểm nói chung, loại hình bảo hiểm nhân thọ nói riêng là cần thiết.
2.2. Nội dung của án lệ
Như trên đã phân tích, hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp đồng thực tế. Do đó, không phải hợp đồng được ký kết, không vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch, hợp đồng thì ngay lập tức hợp đồng bảo hiểm ràng buộc trách nhiệm với bên bảo hiểm.
Sau khi hợp đồng bảo hiểm được ký kết mà bên tham gia bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm, dù được bên bảo hiểm nhắc nhở, gia hạn mà bên tham gia bảo hiểm không đóng bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm sẽ mất hiệu lực. Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời điểm người tham gia bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm thì sẽ không được hưởng quyền lợi bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác thì phải căn cứ vào thỏa thuận không trái pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội để xem xét cụ thể trách nhiệm, quyền lợi mỗi bên.
Trong vụ án này, ông Trần Hữu L đã hoàn thành việc đóng bảo hiểm lần 01 và phải đóng tiền bảo hiểm lần 02 vào ngày 24/6/2005, sau đó được gia hạn 02 tháng nhưng ông Trần Hữu L vẫn không đóng tiền bảo hiểm. Ngày 27/8/2005 ông Trần Hữu L bị tai nạn chết.
Như vậy, trong khoảng thời gian từ 24/6/2005 đến ngày 27/8/2005 xuất hiện hai sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ bảo hiểm nhân thọ giữa Công ty bảo hiểm nhân thọ P và ông Trần Hữu L.
Sự kiện thứ nhất là ông L chưa đóng phí bảo hiểm dù đã đến hạn phải đóng. Sự kiện thứ hai chính là sự kiện bảo hiểm, đó là sau 03 ngày kể từ thời điểm hết thời gian gia hạn đóng bảo hiểm thì ông L bị tai nạn chết, khi ông bị tai nạn là xuất hiện sự kiện bảo hiểm.
Cơ quan bảo hiểm là Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P đã từ chối bảo hiểm, vì cho rằng đã quá thời gian gia hạn 03 ngày mà ông Trần Hữu L vẫn không đóng bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm không còn ràng buộc trách nhiệm Công ty bảo hiểm nữa, do hợp đồng không còn hiệu lực.
Nhìn về hình thức của sự kiện (không đóng bảo hiểm, dù đã được gia hạn) thì sự từ chối trách nhiệm bảo hiểm của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P là có lý.
Việc bên tham gia bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm dù đã được gia hạn đến 02 tháng, nếu không có căn cứ nào khác thì sự từ chối nghĩa vụ bảo hiểm của Công ty Bảo hiểm nhân thọ P sẽ được chấp nhận. Có lẽ đây là nguyên nhân dẫn đến nhận thức sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn phạm một sai lầm khác, dù Tòa án cấp phúc thẩm không có nhận xét gì và đương nhiên không có trong Án lệ. Song tác giả thấy cần phải lưu ý để làm cho các bản án của các Tòa án ngày một hoàn thiện, chuẩn xác.
Về việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Vũ Thị Minh N - nguyên đại lý của Công ty bảo hiểm nhân thọ P là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có đúng pháp luật hay không?
Trong vụ tranh chấp này, bà Vũ Thị Minh N chỉ là đại lý cho Công ty bảo hiểm thực hiện việc thu phí cho công ty bảo hiểm, bà N cũng chưa nhận tiền đóng bảo hiểm của ông Trần hữu L. Việc bà Phạm Thị T (vợ ông L) yêu cầu Công ty bảo hiểm phải chi trả bảo hiểm cho chồng bà chỉ thuộc mối quan hệ giữa bên bán bảo hiểm (Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ P) và bên mua bảo hiểm (ông Trần Hữu L). Giữa bà Vũ Thị Minh N với hai chủ thể nói trên không có quyền lợi gì và cũng không có nghĩa vụ gì với bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp. Do đó, việc Tòa án xác định bà Vũ Thị Minh N là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không đúng.
Để làm rõ kết luận trên, có thể giả thiết ông Trần Hữu L đã đóng tiền bảo hiểm cho bà Vũ Thị Minh N, bà N đã chi tiêu, chưa nộp lại Công ty bảo hiểm, nay có tranh chấp giữa công ty bảo hiểm với ông Trần Hữu L về vấn đề bảo hiểm, hoặc tranh chấp khác có liên quan đến khoản tiền ông Trần Hữu L đã đóng bảo hiểm, khi đó bà Vũ Thị Minh N mới có thể là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tuy nhiên, thực tế bà N chỉ là đại lý của công ty bảo hiểm, chịu trách nhiệm bán bảo hiểm và thu tiền bảo hiểm, trong đó có trường hợp của ông Trần Hữu L, bà chưa thu phí bảo hiểm của ông Trần Hữu L. Bà cũng là người hiểu, biết rõ nhất lý do mà ông L chưa đóng phí bảo hiểm đúng hạn. Do đó, bà Vũ Thị Minh N tham gia tố tụng chỉ với tư cách một nhân chứng, trình bày những vấn đề liên quan đến việc đóng bảo hiểm mà bà là người hiểu biết rõ ràng nhất. Với lời trình bày đúng sự thật khi làm chứng về những gì đã diễn ra sẽ là cơ sở để cơ quan tài phán đánh giá, xem xét yêu cầu mỗi bên. Do đó, nội dung lời trình bày của bà Vũ Thị Minh N đã chứa đựng chứng cứ của vụ tranh chấp bảo hiểm giữa bà Phạm Thị T (vợ ông L) với Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.
Trong vụ tranh chấp bảo hiểm này, nhìn về hình thức, dưới góc độ hiện tượng, biểu hiện của sự việc thì có vẻ như ông Trần Hữu L có vi phạm thời hạn đóng bảo hiểm. Tuy nhiên, xét về bản chất, việc ông Trần Hữu L chưa đóng bảo hiểm không phải là ông không chịu đóng phí bảo hiểm, vi phạm nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm.
Phần nội dung Án lệ đã gián tiếp chỉ ra lý do việc ông Trần Hữu L chưa đóng phí bảo hiểm là: “Căn cứ hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ (bút lục 15-17) thể hiện địa chỉ để Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P thu phí là tại nhà số 231 ấp 3, xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre là nhà của ông L. Điều này cũng phù hợp với lời khai của bà N là đại lý bán bảo hiểm và thu phí của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P”.
Nội dung nói trên của Án lệ chứa đựng hai loại thông tin có ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, địa điểm để ông L đóng phí bảo hiểm là tại nhà ông, điều đó cũng có nghĩa phải có người của Công ty bảo hiểm đến nhà ông thu thì ông L mới phải đóng phí bảo hiểm. Thứ hai, “bà N là đại lý bán bảo hiểm và thu phí của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.”
Bà Vũ Thị Minh N đã trình bày: Bà là đại lý của bị đơn, đã bán bảo hiểm cho ông L. Bà thỏa thuận với ông L là đến kỳ thu phí bảo hiểm, bà sẽ trực tiếp thu phí tại nhà ông L. Thực tế là đến kỳ hạn cuối thu tiền bà phải đi học chính trị ở tỉnh nên không thu phí được. Việc không nộp tiền được là do khách quan, nên bà yêu cầu bị đơn phải trả tiền bảo hiểm cho nguyên đơn.
Như vậy, việc chưa đóng phí bảo hiểm không phải là lỗi của ông L không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Án lệ cũng chỉ rõ nguyên nhân của việc ông L chưa đóng phí bảo hiểm là: “Bởi lẽ như đã phân tích ở trên, lý do ông L không đóng phí bảo hiểm là do nhân viên công ty không đến thu phí. Điều này cũng thể hiện rõ tại trang 5 quyển những thông tin khách hàng cần biết nêu rõ việc thu phí tại nhà gồm có thu phí hàng quý, hàng 6 tháng, hàng năm, hoặc cùng một địa chỉ có từ 02 hợp đồng trở lên, phù hợp với trường hợp của ông L đã mua 03 hợp đồng của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P là của ông L, bà T, bà H”.
Khi ông L không vi phạm nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm thì ông không phải chịu hậu quả của việc phí bảo hiểm của ông chưa được cơ quan bảo hiểm thu. Nói khác đi, dù đã quá thời hạn đóng bảo hiểm, nhưng việc ông L chậm đóng bảo hiểm trong trường hợp này không làm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.
Án lệ hoàn toàn có cơ sở khi bác bỏ quan điểm của cơ quan bảo hiểm khi cho rằng hợp đồng bảo hiểm đã hết hiệu lực: “đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cho rằng ông L không đóng phí bảo hiểm đợt 02 hạn chót là ngày 24/8/2005 và ông L đã chết ngày 27/8/2005, như vậy hợp đồng bảo hiểm của ông L đã hết hiệu lực là không có cơ sở”.
“Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P, cũng như lời đề nghị của luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P”.
Có thể kết luận việc ông Trần Hữu L chưa nộp phí bảo hiểm là lỗi của Công ty bảo hiểm chưa đến thu tiền, chứ không phải ông L vi phạm nghĩa vụ đóng bảo hiểm. Dù người tham gia bảo hiểm là ông L chưa “xuất tiền ra khỏi ví”, cơ quan bảo hiểm chưa nhận được tiền đóng bảo hiểm của ông L, nhưng không thuộc trường hợp bị coi là vi phạm nghĩa vụ đóng bảo hiểm, thì hợp đồng bảo hiểm vẫn đang tồn tại, đang có hiệu lực với các bên. Do đó, hoàn toàn có cơ sở để cho rằng, người tham gia bảo hiểm không vi phạm nghĩa vụ đóng bảo hiểm, khi sự kiện bảo hiểm xuất hiện thì cơ quan bảo hiểm vẫn phải thực hiện trách nhiệm bảo hiểm.
Vì vậy, tác giả hoàn toàn đồng tình với Án lệ khi cho rằng: “Xét ông L đã ký hợp đồng bảo hiểm thông qua hình thức hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ với mức bảo hiểm là 300.000.000 đồng, việc ông L chưa đóng phí đợt 02 như đã phân tích ở trên là không phải lỗi của ông L do đó yêu cầu kháng cáo của bà T buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải chi trả tiền bảo hiểm khi ông L tử vong do tai nạn là có cơ sở để chấp nhận”.
Trong Án lệ này, tác giả nhận thấy nội dung cốt lõi và cũng là thông điệp có ý nghĩa quan trọng mà cơ quan bảo hiểm, cơ quan giải quyết tranh chấp cần tiếp nhận đó là: Người tham gia bảo hiểm chưa đóng phí bảo hiểm, nhưng không phải do lỗi của người tham gia bảo hiểm thì khi sự kiện bảo hiểm xuất hiện, cơ quan bảo hiểm phải chi trả bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm.
3. Kết luận
Từ nội dung của Án lệ có thể thấy, tuy hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp đồng thực tế, nhưng không phải trong mọi trường hợp người tham gia bảo hiểm chưa đóng phí bảo hiểm đúng hạn thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên không còn hiệu lực, sự kiện bảo hiểm xảy ra sau thời điểm đến hạn đóng phí bảo hiểm là bên tham gia bảo hiểm không được bảo hiểm. Ý nghĩa ứng dụng của Án lệ này là khi sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời gian người tham gia bảo hiểm chưa đóng phí bảo hiểm, thì cần phải xem xét bên nào có lỗi đối với việc chưa đóng phí bảo hiểm. Nếu việc chưa đóng phí bảo hiểm do lỗi của Công ty bảo hiểm thì cơ quan bảo hiểm vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm.
Nguồn Tạp chí TAND số 20 năm 2024.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
2. Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).
3. Nghị định số 70-CP ngày 12/6/1994 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án.
4. Án lệ số 23/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06/11/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Ảnh minh hoạ - Quỳnh Nguyễn.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Đề xuất mô hình Tòa án 3 cấp khi bỏ đơn vị hành chính cấp huyện
-
Người vay dùng tiền lừa đảo để trả nợ, người cho vay có trách nhiệm trả lại không?
-
Không áp dụng một số tình tiết giảm nhẹ đối với Tạ Tấn P
-
Trao đổi ý kiến về bài viết “bên đặt cọc hay bên nhận đặt cọc có lỗi?”
-
Một số vấn đề về dấu hiệu định tội của tội "Tổ chức đánh bạc" quy định tại điểm d, đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015
Bình luận